TS.
Mai Văn Thắng[1]
[Trích trong cuốn sách chuyên khảo:
Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm chính
Viện IPL, 2014.]
1. Mối
quan hệ giữa độc lập của thẩm phán và liêm chính tư pháp ở Liên bang Nga
Sau khi Liên Xô tan rã, nước
Nga đã lựa chọn xây dựng xã hội dân chủ và pháp quyền. Ngay tại Điều 1 Hiến
pháp Liên bang Nga, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, là cơ sở, nền tảng của
cả hệ thống pháp luật, đồng thời cũng chính là sản phẩm của sự lựa chọn và tiến
trình dân chủ ở Nga,[2]
đã khẳng định: “Liên bang Nga là một nhà
nước liên bang dân chủ, pháp quyền với hình thức chính thể cộng hòa”. Và
trong Điều 2 Hiến pháp Liên bang tuyên bố “Ở
Liên bang Nga, con người, quyền, tự do và phẩm giá của họ là giá trị cao quý
nhất. Việc thừa nhận, tuân thủ và bảo vệ các quyền, tự do con người, của công
dân là trách nhiệm của Nhà nước”.
Như vậy, nước Nga đã khẳng
định giá trị cao quý nhất, căn nguyên, ý nghĩa của mọi hoạt động, tổ chức của chính
quyền đó chính là con người, quyền, tự do và phẩm giá của họ.[3]
Để giữ gìn và phát triển giá trị ấy, người Nga đã và đang dần thiết lập một hệ
thống thể chế, trong đó, thiết lập hệ thống tư pháp độc lập, có năng lực, uy
tín là đặc biệt quan trọng. Bởi, khác với các nhánh quyền lực khác, quyền lực tư
pháp vừa là bộ phận của bộ máy quyền lực, nhưng đồng thời là chiếc khiên đỡ,
thành trì vững chắc bảo đảm cho các quyền, tự do, bình đẳng và phẩm giá của con
người, bảo vệ sự thương tôn của pháp luật trong xã hội pháp quyền, dân chủ. Là một
bộ phận của bộ máy quyền lực, nhưng tư pháp lại được thiết kế để, trong nhiều
trường hợp, chống lại chính bộ máy quyền lực ấy nhằm bảo vệ con người. Điều 18
Hiến pháp Liên bang Nga đã khẳng định: “Các quyền và tự do của con người và
công dân có hiệu lực trực tiếp. Các quyền và tự do xác định ý nghĩa, nội dung
và việc áp dụng các đạo luật, hoạt động của lập pháp và hành pháp, chính quyền
tự quản địa phương, và được đảm bảo bởi
toà án”.[4]
Để đảm bảo thực hiện nhiệm
vụ đặc biệt này, Hiến pháp và các luật liên bang đã thiết kế một hệ thống tư
pháp độc lập và ghi nhận quyền tư pháp chỉ được thực hiện bởi tòa án.
Không có bất kỳ cơ quan, cá nhân nào có
quyền can dự việc thực thi quyền tư pháp của tòa án. Nghiêm cấm thành lập các
tòa án đặc biệt.[5]
Độc lập tư pháp là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp để bảo vệ giá trị hiến định cơ bản. Tư pháp độc lập được hiểu là trạng thái pháp lý mà ở đó tòa án cũng như các thẩm phán thông qua các cơ chế, biện pháp pháp lý có thể thi hành nhiệm vụ, thẩm quyền được pháp luật quy định mà không phải chịu sự ràng buộc, tác động hay sự ảnh hưởng có tính chất trái luật, đi ngược lại ý chí của họ từ phía các nhánh quyền hành pháp, lập pháp, của cả hệ thống chính trị, chính quyền địa phương, yếu tố tổ chức bên tổ chức bên trong hệ thống tư pháp cũng như những yếu tố tự thân hay nhu cầu cá nhân thẩm phán.
Cần lưu ý rằng, sự độc lập của tòa án không
hoàn toàn đồng nghĩa với sự độc lập của mỗi thẩm phán. Quan trọng hơn tất cả,
sự độc lập của tư pháp phải gắn liền với sự độc lập của mỗi thẩm phán, bởi
chính thẩm phán chứ không phải tòa án mới là chủ thể của quyền tư pháp, là
người nhân danh quyền lực nhà nước, nhân danh công lý để đưa ra phán quyết nhằm
bảo vệ công lý, công bằng, trật tự xã
hội và nhân quyền.
Không thể phủ
nhận rằng, thiết lập mô hình, hệ thống tòa án độc lập sẽ có tác động không nhỏ
tới sự độc lập của mỗi thẩm phán, nhưng điều đó không có nghĩa thẩm phán đã
hoàn toàn độc lập để đưa ra những phán quyết chỉ dựa nền tảng hiến pháp, pháp
luật và nhân danh công lý. Thẩm phán có thể độc lập với các nhánh quyền lực
khác, với hệ thống tòa án, nhưng lại khó độc lập với chính mình, chính cái
“Tôi” của mình, hoặc bị chịu sự tác động của các yếu tố khác, bao gồm cả yếu tố
chủ quan.
Như vậy, tòa án
có thể được thiết kế độc lập, nhưng thẩm phán chưa chắc đã độc lập. Với sứ mệnh
cao cả của mình, thẩm phán được trao quyền lực và được thiết kế để nhân danh
quyền lực. Điều này rất cần thiết, nhưng kèm theo đó là những nguy cơ lạm quyền
của chính thẩm phán. Nếu điều tệ hại đó xảy ra, thì vô cùng nguy hiểm, bởi đúng
như theo nhận định của Susan Rose – Ackerman: “do các quyết định của ngành tư pháp có khả năng phân phối lại quyền lực
và tài sản nên các thẩm phán có thể lạm dụng địa vị nghề nghiệp của họ để mưu
lợi cho mình. Nếu cơ quan tư pháp lại là một mắt xích của tham nhũng, thì cả
người dân lương thiện, lẫn quan chức tham nhũng đều có chung một nhận thức là
hối lộ có thể giải quyết mọi vấn đề của pháp luật! ... Vì vậy, một hệ thống tư pháp liêm chính và có uy tín có ý nghĩa quan
trọng trong việc đấu tranh chống tham nhũng và duy trì trật tự pháp luật”.[6]
Tất nhiên, điều nguy hại đó không chỉ đến từ sự lạm dụng của thẩm phán nhằm mưu
cầu lợi ích cá nhân, những nguy hại đó hoàn toàn có thể đến từ những ảnh hưởng,
tác động, áp lực mà thẩm phán phải hứng chịu khi đưa ra những quyết định của
mình. Để phòng ngừa những điều đó, cần thiết lập đầy đủ các điều kiện để đảm
bảo mỗi thẩm phán là người liêm chính.
Thẩm phán liêm
chính[7]
có nghĩa là thẩm phán chỉ làm những điều đúng đắn, đàng hoàng, trong sáng,
không tham lam, không vụ lợi và khi thực hiện nhiệm vụ chỉ tuân thủ Hiến pháp,
pháp luật và nhân danh công lý. Liêm chính không chỉ là những phẩm chất tốt
đẹp, trong sáng, chính đáng, phù hợp với những chuẩn mực, đạo đức của một cá
nhân, mà còn là những yêu cầu, tiêu chuẩn, đòi hỏi đối với những hành vi, hành
động của thẩm phán – người nhân danh công lý để bảo vệ quyền, tự do, phẩm giá
của con người, trật tự, công lý và công bằng xã hội.
Nhưng, thẩm phán
xét cho cùng cũng chỉ là một con người, và vì thế nên có đủ tất cả mọi xúc cảm,
hỉ, nộ, ái, ố mà một con người thường có. Ở khía cạnh khác, thẩm phán là một
nhà chức trách nắm giữ quyền lực, nhân danh công lý để thực thi nhiệm vụ nên
thẩm phán cần phải có những đảm bảo để thực sự độc lập và chỉ có thực sự độc
lập thì thẩm phán mới được liêm chính. Và chỉ khi thẩm phán thực sự liêm chính
thì hệ thống tư pháp mới có được đầy đủ năng lực, uy tín và niềm tin để thực sự
trở thành cái khiên đỡ, là thành trì vững chắc cuối cùng bảo vệ quyền, tự do,
nhân phẩm của mỗi con người, bảo vệ công bằng, công lý và trật tự xã hội.
Nhận thức được điều
tối quan trọng đó, Liên bang Nga đã thiết lập hệ thống những đảm bảo để đảm bảo
sự độc lập của thẩm phán. Sự độc lập không chỉ đối với các nhánh quyền lực, với
hệ thống tư pháp mà còn với cả chính mình, với cái “Tôi” của mỗi thẩm phán.
2.
Những đảm bảo sự độc lập của thẩm phán như là nhân tố
quan trọng đảm bảo cho liêm chính tư pháp ở Liên bang Nga hiện nay
a.
Đảm bảo bằng hệ thống những nguyên tắc pháp lý
Để đảm bảo sự
độc lập của thẩm phán, Hiến pháp, Luật hiến pháp Liên bang[8]
“Về hệ thống tòa án của Liên bang Nga”
năm 1996 và Luật Liên bang “Về quy chế
thẩm phán ở Liên bang Nga” 1992 đã thiết lập một hệ thống các nguyên tắc
pháp lý mang tính chất như là các quy định cơ sở, nền tảng hướng đến đảm bảo sự
độc lập của thẩm phán.
Trước hết, đó là nguyên tắc phân quyền. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 10 của Hiến
pháp Liên bang Nga. Không chỉ phân quyền giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp
(phân quyền ngang), trong hệ thống tổ chức nhà nước và pháp luật Liên bang Nga,
phân quyền còn được hiểu cả việc phân định quyền lực giữa trung ương và địa
phương (phân quyền dọc) và phân định quyền lực giữa hệ thống cơ quan quyền lực
với người dân (lưu quyền).[9]
Với mô hình phân quyền này, nền tư pháp của Liên bang Nga về cơ bản được đảm
bảo sự độc lập với các nhánh lập pháp, hành pháp, với hệ thống chính quyền địa
phương và hệ thống chính trị Liên bang Nga.
Nguyên tắc quyền xét xử chỉ thuộc về tòa án. Với việc ghi nhận nguyên tắc này tại Khoản 1 Điều
118 của Hiến pháp Liên bang Nga, tất cả các cơ khác mà không phải là tòa án đều
không được phép thực hiện quyền xét xử. Cụ thể hóa nguyên tắc này của Hiến
pháp, Điều 4 Luật hiến pháp Liên bang “Về
hệ thống tòa án tại Liên bang Nga” năm 1996 quy định thẩm quyền xét xử ở
Liên bang Nga chỉ được thực hiện bởi các tòa án được thành lập phù hợp với quy
định của Hiến pháp và Luật hiến pháp Liên bang “Về hệ thống tòa án ở Liên bang Nga”. Việc thành lập các tòa án đặc
biệt và các tòa án không đúng theo quy định tại Luật này đều bị cấm.
Nguyên tắc thẩm phán không thể bị bãi miễn. Nhằm
đảm bảo sự độc lập của thẩm phán, Liên bang Nga đã chọn phương án bổ nhiệm suốt
đời cho thẩm phán Liên bang. Theo Điều 121 Hiến pháp Liên bang Nga, thẩm phán
không thể bị bãi miễn. Quyền hạn của thẩm phán chỉ có thể bị chấm dứt trên cơ
sở các căn cứ được quy định bởi luật Liên bang. Cũng theo quy định tại các điều
14 và 15 Luật hiến pháp Liên bang “Về hệ
thống tòa án ở Liên bang Nga” năm 1996, thẩm quyền của thẩm phán không thể
bị giới hạn bởi các nhiệm kỳ. Cũng theo luật này, thẩm phán không thể bị thay
thế hoặc chuyển sang một chức vụ khác nếu chưa có sự đồng ý của chính thẩm phán
đó. Trong trường hợp thẩm phán vi phạm kỷ luật thì thẩm quyền có thể bị tước bỏ
theo quyết định của Hội đồng kỷ luật thẩm phán. Quyết định này có thể bị kháng
cáo lên cơ quan Giám sát kỷ luật của thẩm phán Liên bang.
Nguyên tắc bất khả xâm phạm của thẩm phán. Tại Điều 122 Hiến pháp Liên bang Nga quy định “Thẩm phán bất khả xâm phạm. Thẩm phán không
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo trình tự khác với những quy định của
pháp luật Liên bang”. Nguyên tắc bất khả xâm phạm được cụ thể hóa ở các
điều 16 và 17 của Luật Liên bang năm 1992 “Về
địa vị của thẩm phán”. Theo quy định của các điều này, bất khả xâm phạm của
thẩm phán được hiểu là sự bất khả xâm hại về nhân phẩm, nơi ở, nơi làm việc,
các phương tiện giao thông cá nhân cũng như công vụ, bí mật thư tín, điện thoại
hoặc các hình thức trao đổi điện tử khác. Bất khả xâm phạm còn bao hàm cả thủ
tục để truy cứu trách nhiệm dành cho thẩm phán được quy định rất chặt chẽ của Luật
Liên bang.
Nguyên tắc mọi thẩm phán đều bình đẳng về địa vị pháp
lý. Theo Điều 12
Luật hiến pháp Liên bang “Về hệ thống tòa
án Liên bang” năm 1996, Mọi thẩm phán đều bình đẳng với nhau về địa vị pháp
lý. Giữa các thẩm phán chỉ khác nhau về chức năng và nhiệm vụ. Điều này không có nghĩa là tất cả mọi
quyền lợi hay nghĩa vụ của mọi thẩm phán đều như nhau. Tùy vào vị trí công
việc, thâm niên hoặc các điều kiện khác thì có thể được công nhận ngạch khác
nhau. Việc có ngạch khác nhau không có nghĩa là địa vị pháp lý của các thẩm
phán khác nhau. Các thẩm phán đều có địa vị pháp lý, có vị thế, hệ thống những
đảm bảo bình đẳng như nhau trong hoạt động xét xử.
Nguyên tắc thẩm phán trung lập về chính trị. Đây là nguyên tắc được quy định cụ thể tại Điều 3
Luật Liên bang “Về địa vị thẩm phán ở
Liên bang Nga”. Đây là nguyên tắc cần thiết và phù hợp để đảm bảo sự độc
lập, sự công tâm của thẩm phán ở Liên bang Nga trong bối cảnh của hệ thống
chính trị đa nguyên.
Ngoài ra
còn nhiều các nguyên tắc hiến định khác khác như: nguyên tắc nhân dân là nguồn
gốc duy nhất của quyền lực (Điều 3); nguyên tắc pháp quyền (Điều 1); thẩm phán
và tòa án độc lập chỉ tuân theo Hiến pháp, pháp luật và niềm tin cá nhân (Điều
120)[10]...
Các nguyên tắc này là cơ sở, nền tảng góp phần đảm bảo cho sự độc lập của thẩm
phán ở Liên bang Nga.
b.
Đảm bảo bằng hệ thống tòa án được thiết kế độc lập
Để mỗi thẩm phán độc lập thì một trong những yêu cầu
cơ bản là phải có một hệ thống tòa án độc lập. Hiện nay, ở Liên bang Nga đã
hoàn thiện hệ thống hai cấp độ tòa án độc lập với lập pháp, hành pháp, với hệ
thống chính trị, chính quyền địa phương và với chính các cấp tòa, các loại tòa
án với nhau.
Ở cấp Liên bang có 03 tiểu hệ thống tòa án biệt lập
với nhau: Tòa án Hiến pháp Liên bang; Hệ thống Tòa án thẩm quyền chung và Hệ
thống tòa án kinh tế Liên bang. Ngoài tòa án Hiến pháp Liên bang, các hệ thống
tòa án khác đều có các cấp tòa đặt ở các chủ thể Liên bang (nước cộng hòa,
tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương... ) và thậm chí là ở các
quận, huyện... Tuy nhiên, các tòa này được coi là đặt ở địa phương đó, còn
trong tổ chức và hoạt động độc lập với chính quyền địa phương nơi tòa án đó đặt
trụ sở.
Ở cấp Chủ thể có hai loại tòa án: Tòa án Hiến pháp của
Chủ thể (hay Tòa án Hiến Chương)[11]
và thẩm phán khu vực (còn gọi tòa khu vực). Tòa án Hiến pháp của Chủ thể được
Chủ thể thành lập để bảo vệ Hiến pháp hoặc Luật cơ bản của Chủ thể và tính cần
thiết của nó do mỗi Chủ thể Liên bang tự quyết định. Thẩm phán khu vực (hay tòa
khu vực), khác với Tòa án Hiến pháp của Chủ thể, lại thuộc hệ thống tòa án có
thẩm quyền chung. Tuy nhiên, về nhân sự, chi phí trang bị cho tòa án lại được
quyết định bởi Chủ thể Liên bang. Mặc dù vậy, để đảm bảo sự thống nhất và bình
đẳng về địa vị pháp lý, tất cả các thẩm phán, không phân biệt cấp Liên bang hay
cấp Chủ thể Liên bang, đều được hưởng lương, thưởng từ ngân sách Liên bang cũng
như các đảm bảo vật chất hay pháp lý khác.
Không chỉ có hai cấp tòa án. Ở Liên bang Nga, như đã
nói, mỗi loại tòa án đều có hệ thống riêng và có thẩm quyền riêng không phụ
thuộc lẫn nhau. Hệ thống tòa án thẩm quyền chung xét xử những vi phạm và vụ
việc, tranh chấp trong lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, lao động. Hệ thống
tòa án kinh tế Liên bang xét xử những vụ việc, tranh chấp thuộc lĩnh vực kinh
doanh, thương mại. Tòa án Hiến pháp Liên bang thực hiện chức năng bảo hiến và
các chức năng khác theo quy định. Các tòa án Hiến pháp (Hiến Chương) của các
Chủ thể thực thi nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, Luật cơ bản của Chủ thể tương ứng.
Đảm bảo sự độc lập của thẩm phán bằng hệ thống tòa án
độc lập còn thể hiện ở việc thiết lập sự độc lập của mỗi đơn vị tòa án (cấp
tòa) trong mối tương quan với chính hệ thống bên trong của mình. Chẳng hạn,
cùng nằm trong hệ thống tòa án có thẩm quyền chung của Liên bang Nga, nhưng mỗi
cấp tòa: Tòa án tối cao; các tòa án nước cộng hòa, tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, khu, tỉnh tự trị... ; các tòa án quận, huyện... đều độc lập với
nhau theo nguyên tắc tòa án cấp này này không phải là cấp dưới của cấp tòa kia
và ngược lại. Mỗi cấp tòa có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền riêng và độc lập
với nhau. Ở Liên bang Nga việc tòa án cấp này lấy vụ việc thuộc thẩm quyền của
cấp tòa cấp khác để xét xử là điều cấm. Không thể có tranh chấp về thẩm quyền
giữa các cấp tòa. Theo quy định của pháp luật Liên bang, một cấp tòa không thể
bị xóa bỏ, chấm dứt hoạt động nếu thẩm quyền của nó chưa được chuyển giao cho
tòa án khác theo quy định.
c.
Đảm bảo an ninh cá nhân, thân nhân thẩm phán
Đảm bảo tính mạng, sức khỏe, an ninh cá nhân của thẩm
phán là sự đảm bảo cần thiết cho sự độc lập của thẩm phán. Theo lẽ tự nhiên,
tính mạng, sức khỏe là cái quý nhất của mỗi con người. Với thẩm phán – người
gác đền công lý nhưng lại luôn đối mặt với vô số những hiểm nguy, thì an ninh
cuả họ càng cần phải được bảo đảm. Và cũng chính bởi nghề đặc thù ấy, không chỉ
có thẩm phán mà người thân của họ cũng là đối tượng dễ bị xâm hại nhất. Thực tế
cho thấy, có những thẩm phán đã chấp nhận hi sinh, nhưng khi những đe dọa, xâm
hại được chuyển sang những người thân thiết thì rất ít thẩm phán có thể chấp
nhận đánh đổi. Xét xử là công việc hàng ngày và khó có một thẩm phán có thể
chấp nhận hi sinh tất cả người thân của mình để bảo vệ công lý xã hội...
Ý thức được điều này, Liên bang Nga đã tạo lập được
một hệ thống những đảm bảo an ninh, tính mạng, sức khỏe không chỉ của thẩm phán
mà còn của cả thân nhân thẩm phán.
Theo quy định của Luật Liên bang “Về các biện pháp của nhà nước nhằm bảo vệ thẩm phán, cán bộ, công
chức cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan thanh tra” năm 1995 và được triển
khai trên thực tế từ đầu năm 2010,[12]
và Chương trình mục tiêu quốc gia về “Phát
triển hệ thống tư pháp ở Nga” nghĩa vụ đảm bảo an ninh nơi ở, nơi làm việc
của thẩm phán được giao cho Cục hỗ trợ tư pháp thuộc Tòa án tối cao Liên bang (Судебный
депертамент
при
Верховном
суде
РФ) Cục Liên bang hỗ trợ tư pháp và thi hành án (Федеральная
служба
судебных
приставов),
cơ quan thuộc Bộ Nội vụ (подразделения органов внутренных дел) và một số cơ quan khác. Theo đó, tại trụ sở làm việc
của thẩm phán, phòng xét xử, phòng nghị án, nơi lưu giữ hồ sơ, chứng cứ vụ án
phải được trang bị các thiết bị như: hệ thống cửa quay; máy dò kim loại (bao
gồm máy đặt tại cửa ra vào và máy cầm tay); hệ thống cảnh báo cháy và cảnh báo
anh ninh được kết nối với trung tâm thông tin thuộc cơ quan nội vụ (cơ quan
công an); hệ thống chữa cháy tự động đặc biệt tại nơi lưu trữ hồ sơ vụ án; nốt
báo khẩn cấp lắp tại các phòng xử án, phòng làm việc của thẩm phán; camera theo
dõi an ninh trong và ngoàì tòa nhà và các phạm vi phụ cận tòa án.[13] [14] Ngoài
những trang thiết bị này, kể từ năm 2010 trở đi lực lượng thường trực bảo vệ
tòa án được chuyển giao từ lực lượng bảo vệ thuộc Bộ Nội vụ sang cơ quan chuyên
nghiệp là lực lượng cảnh vệ của Cục Liên bang hỗ trợ tư pháp và thi hành án (Федеральная
служба
судебных
приставов).
Để đảm bảo an ninh cá nhân của thẩm phán, theo Điều 5
và Điều 7 Luật Liên bang “Về các biện pháp của nhà nước nhằm bảo vệ
thẩm phán, cán bộ, công chức cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan thanh tra” năm
1995, mỗi thẩm phán có thể được trang bị vũ khí, áo, mũ chống đạn hoặc các
trang bị bảo vệ cá nhân trong trường hợp khẩn cấp. Việc cấp vũ khí hiện được
thực hiện theo đơn đề nghị của thẩm phán có tính đến tình hình thực tiễn, nguy
cơ xâm hại an ninh của thẩm phán và tiến hành theo quy định của Luật Liên bang
“Về vũ khí” năm 1996, Nghị định của Chính phủ Liên bang số 1575 ban hành ngày 18/12/1997 “Những quy định về cấp vũ khí cho thẩm phán
bởi cơ quan nội vụ”.
Nơi ở của
thẩm phán Liên bang Nga được lắp đặt thiết bị cảnh báo an ninh và kết nối với
đơn vị công an phụ trách bảo vệ an ninh theo nơi cư trú của mỗi thẩm phán. Thân
nhân của thẩm phán được bảo vệ và được cung cấp đường dây nóng cảnh báo an
ninh. Ngoài ra, thẩm phán, cũng như thân nhân của thẩm phán còn có thể được cơ
quan chuyên trách thực hiện hàng loạt các biện pháp bảo vệ an ninh như: Tạm
chuyển đến một nơi an toàn; chuyển sang công việc khác, nơi học tập khác hoặc
chuyển chỗ làm, chỗ học, chuyển sang chỗ ở mới; thay đổi giấy tờ tùy thân hoặc
thay đổi hình dạng bên ngoài.[15]
d.
Những đảm bảo về thu nhập, nhu cầu vật chất khác của
thẩm phán
Thẩm phán
không chỉ là nghề nguy hiểm mà còn là nghề có nhiều cám dỗ. Để những nhu cầu
chính đáng về vật chất của thẩm phán không làm thay đổi sự thật của bản án, ở
Liên bang Nga, nhờ những thành tựu về kinh tế trong những năm gần đây, hàng
loạt chính sách đảm bảo thu nhập cũng như nhu cầu vật chất của thẩm phán đã
được thực hiện.
Nhằm đảm
bảo thu nhập của thẩm phán và xứng với địa vị cao quý của nghề nghiệp, theo quy
định của Điều 11 Luật hiến pháp Liên bang “Về
hệ thống tư pháp ở Liên bang nga”, năm 1996 thu nhập của thẩm phán ở Liên
bang Nga được thống nhất đảm bảo từ nguồn ngân sách của toàn Liên bang (dù là
thẩm phán tòa án Liên bang hay Tòa án Chủ thể Liên bang) và không thể bị giảm
trong suốt thời gian tại vị.[16]
Ngoài ra,
nếu như trước đây, ở Liên bang Nga trong văn bản pháp luật dùng từ tiền công (заработная
плата)
thì từ năm 2010 với việc cải cách chế độ tiền lương, ở Nga từ tiền công được
thay bằng tiền lương thưởng (денежное содержание и денежное вознаграждение). Việc thay thế từ ngữ không chỉ thể hiện sự thay đổi
tư duy,[17]
ghi nhận địa vị cao quý của thẩm phán mà còn thay đổi cơ chế trả tiền lương
thưởng cho thẩm phán khác với hệ số lương của cán bộ, công chức khác trong hệ
thống cơ quan nhà nước nói chung.[18]
Không chỉ được đảm bảo về thu nhập, thẩm phán còn được
đảm bảo về chỗ ở cho những ai chưa đạt chuẩn về diện tích phòng ở. Nếu chưa
được đảm bảo về chỗ ở, thẩm phán được bồi hoàn tiền thuê phòng ở riêng với diện
tích tối thiểu là 20m2. Nếu đã có chỗ ở nhưng chưa đạt chuẩn về diện tích và có
phòng biệt lập thì cũng được nhà nước hỗ trợ từ nguồn ngân sách liên bang. Cũng
theo quy định của pháp luật Liên bang, thẩm phán và nhân thân của thẩm phán còn
được hưởng các đảm bảo chăm sóc sức khỏe theo bảo hiểm y tế, được cấp thuốc
miễn phí, hưởng các dịch vụ nghỉ dưỡng tại các khu nghỉ dưỡng, chữa bệnh theo
quy định...[19]
e.
Những đảm bảo khác
Ngoài những
đảm bảo kể trên, để thực sự độc lập trong thực thi công vụ, thẩm phán còn được
đảm bảo được bảo vệ bởi Hội đồng thẩm phán Liên bang Nga;[20]bị
cấm nhận những danh hiệu, bằng cấp danh dự, huân, huy chương... của các tổ chức
cá nhân khi chưa được phép; cấm ra nước ngoài bằng kinh phí của tổ chức, cá
nhân khác; cấm tham gia các hoạt động khác ngoại trừ nghiên cứu khoa học và
giảng dạy nhưng vẫn phải đảm bảo thực thi nhiệm vụ xét xử...
3.
Kết luận
Liêm chính tư
pháp không chỉ là yêu cầu cơ bản của một nền tư pháp trong xã hội dân chủ, pháp
quyền, mà còn là điều kiện để có được quyền lực tư pháp thực sự độc lập, có
năng lực, uy tín để thực thi nhiệm vụ bảo vệ quyền, tự do, phẩm giá của con
người và bảo đảm công bằng, công lý, trật tự xã hội. Để có liêm chính tư pháp
hay chính xác hơn là mỗi thẩm phán liêm chính, trên hết và trước hết, cần có
một hệ thống những đảm bảo cho sự độc lập của tòa án, đặc biệt là đảm bảo độc
lập của mỗi thẩm phán.
Những phân tích
ở trên cho thấy, hiện nay, Liên bang Nga đã thiết lập được hệ thống các đảm bảo
cho sự độc lập của thẩm phán – nhân tố quan trọng cho liêm chính tư pháp. Sự
độc lập của tòa án là điều kiện cần cho sự độc lập của thẩm phán. Sự độc lập của tòa án được đảm bảo bằng hệ thống
các nguyên tắc mang tính chất hiến định của nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc
phân quyền, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền xét xử chỉ thuộc
về tòa án; pháp chế... Ngoài ra, để đảm bảo cho sự độc lập của tòa án, thì sự
độc lập về tài chính, công tác nhân sự, phi chính trị hóa hoạt động của tòa án
cũng là những quy định góp phần đảm bảo sự độc lập của tòa án.
Ngoài sự độc lập
của tòa án, để thẩm phán được độc lập, pháp luật Liên bang Nga đã quy định hệ
thống các đảm bảo cho sự độc lập của mỗi thẩm phán. Trên cơ sở những phân tích
ở trên, tựu chung lại, để độc lập, mỗi thẩm phán ở Liên bang Nga được:
- Đảm
bảo bình đẳng về địa vị pháp lý. Giữa các thẩm phán chỉ khác nhau về chức
trách, nhiệm vụ.
-
Đảm bảo bất khả xâm phạm. Bất khả xâm phạm của thẩm phán có nghĩa là sự bất khả
xâm hại về nhân phẩm, thân thể, nơi ở, nơi làm việc, các phương tiện giao thông
cá nhân cũng như công vụ, bí mật thư tín, điện thoại hoặc các hình thức trao
đổi điện tử khác. Bất khả xâm phạm còn bao hàm cả thủ tục để truy cứu trách
nhiệm dành cho thẩm phán phải được quy định rất chặt chẽ bởi luật.
- Đảm
bảo độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và niềm tin vào công lý, đạo đức xã hội,
sự hiểu biết và lương tâm của chính mình.
- Đảm bảo bất
khả bãi miễn. Bất khả bãi miễn được hiểu rộng ra có nghĩa là thẩm phán cần được
bổ nhiệm suốt đời hoặc chí ít cũng là thời hạn làm việc đủ dài để không phải
quá lo lắng về vấn đề công việc của mình. Bất khả bãi miễn không đồng nghĩa với
việc thẩm phán không thể bị nghỉ việc, cách chức, thuyên chuyển công tác, thôi
giữ chức vụ thẩm phán... Việc bãi miễn thẩm phán chỉ có thể được thực hiện theo
quy trình luật định vô tư, chặt chẽ, cụ thể và minh bạch.
- Đảm
bảo an ninh cá nhân cũng như an ninh của người thân. Đảm bảo an ninh cá nhân
trước hết là đảm bảo an ninh nơi làm việc của thẩm phán, bao gồm: trụ sở làm
việc của tòa án, phòng làm việc, nơi cất giữ hồ sơ, tài liệu, chứng cứ và an
ninh phiên tòa. Ngoài ra, an ninh cá nhân và thân nhân của thẩm phán còn được
hiểu là hệ thống các biện pháp pháp lý, trang bị các phương tiện an ninh-kỹ
thuật, con người nhằm đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe tài sản của thẩm phán
và thân nhân của thẩm phán tại nơi ở, nơi cư trú, nơi học tập cũng như nơi làm
việc trong mọi tình huống.
- Đảm bảo thu
nhập cũng như điều kiện vật chất khác của thẩm phán. Thẩm phán là nghề đặc
biệt, đòi hỏi tính chuyên nghiệp, sự tập trung cao độ, sự liêm khiết và luôn
đối mặt với nhiều thách thức, cám dỗ. Vì vậy, để thẩm phán có thể “toàn tâm,
toàn ý” “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” thì nhà nước cần đáp ứng nhu
cầu vật chất chính đáng của họ và xứng đáng với đặc thù công việc. Đảm bảo về
vật chất trước hết là đảm bảo về thu nhập ở mức cao trong xã hội đủ để trang
trải cuộc sống cho bản thân và gia đình, sau đó là những đảm bảo về nơi ở, nơi
làm việc, điều kiện chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thân thể, điều
kiện nghỉ dưỡng, phương tiện đi lại cho thẩm phán.
- Đảm
bảo phi hành chính hóa hoạt động của tư pháp. Theo đó, mỗi cấp tòa, mỗi thẩm
phán phải độc lập về chức năng và nhiệm vụ. Không thể có quan hệ mệnh lệnh hành
chính, quan hệ cấp trên, cấp dưới trong quan hệ tư pháp. Giữa các cấp tòa và
các thẩm phán chỉ có mối quan hệ về nhiệm vụ, thẩm quyền. Ngoài ra, trong quan
hệ tư pháp thẩm phán phải là trung tâm của mọi hoạt động tư pháp.
- Đảm
bảo có hệ thống tổ chức (tổ chức xã hội nghề nghiệp) có tiếng nói và đại diện cho
quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Đồng thời, để đảm bảo sự độc lập trong xét xử
thẩm phán bị cấm tham gia các hoạt động có nguy cơ làm ảnh hưởng đến hoạt động
xét xử hay nhận các phần thưởng, huân huy chương từ các tổ chức, cá nhân mà
chưa được phép. Ngoài ra, để độc lập với chính “cái tôi” của mình, mỗi thẩm
phán phải được tạo điều kiện trong việc thường xuyên được bồi dưỡng, nâng cao
nghiệp vụ để có được chuyên môn và tính chuyên nghiệp cao, bởi khi có chuyên
môn vững thẩm phán có thể độc lập và tự tin đưa ra các quyết định mà không cần
“thỉnh án” “xin hướng giải quyết vụ việc” như một số thẩm phán hay làm./.
[1] Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội. Email: mvt_anson@mai.ru; ĐT:
0947.055.811
[2] Hiến pháp này được
thông qua trong cuộc
Trưng cầu dân ý toàn dân,
tiến hành ngày 12/12/1993.
[3] Điều này đã
được khẳng định một lần nữa tại Điều số 18 Hiến pháp Liên bang Nga “….Các quyền và tự do xác định ý nghĩa, nội
dung và việc áp dụng các đạo luật, hoạt động của lập pháp và hành pháp, chính
quyền tự quản địa phương, …”
[4] Tác giả dẫn theo bản dịch Hiến
pháp Liên bang Nga trong cuốn “”Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên thế giới”.
NXB. Thống kê, 2009. Phần bôi đen trong đoạn trích là ý của tác gỉả.
[5] Điều 118, Khoản 1 Hiến pháp Liên
bang Nga và Điều 1 Luật hiến pháp Liên bang “Về hệ thống tư pháp Liên bang Nga” năm 1996..
[6] Susan
Rose – Ackerman. Corruption and Government – Causes, Consequences, and Reform.
Cambridge University Press, 1999, p. 200-201.
[7] Liên quan thuật ngữ liêm chính
đã có nhiều những cách lý giải khác nhau, chẳng hạn: Theo quan
niệm của Tổ chức minh bạch quốc tế (TI) liêm chính được coi là “các hành vi và hành động phù hợp với các
nguyên tắc và tiêu chuẩn về đạo đức được các cá nhân, tổ chức chấp nhận, tạo ra
rào cản đối với tham nhũng”. Trong bài “Cần, kiệm, liêm, chính”[7]
vào năm 1949 Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết “Liêm
là trong sạch, không tham lam. Ngày xưa trong chế độ phong kiến, những người
làm quan không đục khoét dân được gọi là Liêm...”, “Chính có nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì
không thẳng thắn, đứng đắn tức là tà” (Theo: Hồ Chí Minh, Toàn tập. Tập 5,
trang 234 và 293).
[8] Ở Liên bang
Nga các đạo luật ban hành cụ thể hóa Hiến pháp Liên bang và ban hành, sửa đổi,
bổ sung theo trình tự lập hiến được gọi là Luật hiến pháp (Федеральный конституционный закон). Đây là văn bản có hiệu lực
pháp lý cao chỉ sau Hiến pháp (Конституция
РФ) và trên các
đạo luật Liên bang (Федеральный
закон).
[9] Cụ thể xem thêm trong bài viết
của TS. Mai Văn Thắng - “Mô hình phân quyền ở Liên bang Nga” trong tạp chí NCLP
số 13-14/ tháng 7 năm 2012.
[10] Được quy định
trong Hiến pháp Liên bang Nga 1993.
[11] Do
Liên bang Nga được tạo thành từ các Chủ thể có quy chế khác nhau nên tên gọi
của cấp chính quyền, cơ quan nhà nước của mỗi Chủ thể cũng khác nhau. Nếu ở
nước cộng hòa thì được gọi là tòa Hiến pháp, còn ở các tỉnh, khu tự trị… gọi là
Tòa án Hiến chương, tuy nhiên về quy chế pháp lý là ngang nhau. Hiện ở Nga Tòa
án Hiến pháp của Chủ thể không được thiết lập ở tất cả các chủ thể mà chỉ có ở
25/83 chủ thể Liên bang.
[12] Theo thông báo của ông Gusev A.V. Vụ trưởng vụ hỗ trợ tư
pháp thuộc Tòa án tối cao Liên bang Nga trong cuộc trả lời phỏng vấn trực tuyến
trên Hãng thông tấn Garant. Nguồn:
http://www.garant.ru/action/conference/288511/
[13] Điều 6 Luật Liên bang “Về bảo vệ
nhà nước đối với thẩm phán, cán bộ, công chức của các cơ quan bảo vệ pháp luật,
cơ quan thanh tra”, 1995.
[14]. Cũng theo báo cáo của ông
Gusev A.V chỉ trong
năm 2009 từ ngân sách của Liên bang đã chi ra trên 20 triệu USD (Khoảng 550
triệu rúp) để trang bị các thiết bị bảo vệ các tòa án thẩm quyền chung.
[15] Cụ thể xem thêm các điều
8,9,10,11 của Luật Liên bang
“Về các biện pháp của nhà nước nhằm bảo vệ thẩm phán, cán bộ, công chức cơ quan
bảo vệ pháp luật, cơ quan thanh tra” năm 1995.
[16] Khoản 1 Điều 19 Luật Liên bang
“Về quy chế thẩm phán tại Liên bang Nga”, 1992
[17] Theo các nhà lập pháp Nga dùng
từ tiền công không phù hợp với chức danh cao quý – thẩm
phán. Họ không làm việc để lấy tiền công là chủ yếu, mà họ làm việc vì công lý,
công bằng xã hộivà để đảm bảo cuộc sống tốt cho thẩm phán thì nhà nước có nghiã
vụ đảm bảo thu nhập xứng đáng với địa vị và công sức của họ. Chính vì vậy, hiện
nay các nhà lập pháp đã thay từ “зарплата
судьи” bằng
từ “денежное содержание судьи” (tạm dịch là tiền thưởng –
nhưng dùng theo nghĩa thẩm phán làm việc không vì thu nhập mà đó là ghĩa vụ nhà
nước phải đảm bảo).
[18]
Nhờ sự thay đổi này mà lương, thưởng của thẩm phán ở Liên bang Nga đã tăng rất
nhanh. Theo báo cáo của ông Gusev A.V thì thẩm phán cấp tòa án tỉnh (như tỉnh
Voronezh) thì năm 2012 thu nhập khoảng 140.000 rúp/1 tháng (tương đương hơn
6000 USD/1 tháng), cấp huyện thì thấp hơn . Trong khi đó thu nhập bình quân của
cán bộ, công chức khác trong năm 2012 vào khảng trên dưới 1200 USD/1 tháng (Số
liệu còn dẫn theo: http://www.lawinrussia.ru/node/205060).
[19] Điều 16 và Điều 19 Luật Liên
bang “Về quy chế thẩm phán tại Liên bang Nga”, 1992
[20] Tổ chức đại diện quyền lợi,
tiếng nói của thẩm phán toàn Liên bang Nga.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.