TS. Mai Văn Thắng
Khoa Luật - ĐHQGHN
1.Đặt vấn đề
Cũng
như nhà nước, pháp luật là hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng. Là hệ thống
các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước,
nhưng pháp luật không phải là sản phẩm của ý nguyện của Thượng Đế, mà được nảy
sinh từ thực tiễn, từ chính các điều kiện vật chất của xã hội, phản ánh hài hòa
các nhu cầu, ý chí của các chủ thể khác nhau trong xã hội nhằm đảm bảo cho xã
hội luôn trong vòng trật tự, tạo điều kiện cho xã hội phát triển, bảo đảm quyền
và tự do của các chủ thể trong sinh hoạt cộng đồng.
Chính
vì vậy, pháp luật không phải là hiện tượng bất biến, vĩnh cửu, mà cần thiết
phải thay đổi theo sự biến đổi của xã hội và bản thân nó luôn chịu sự tác động
của các sự vật, hiện tượng khác nhau trong đời sống xã hội.
Trong
những năm gần đây, cùng với quyết tâm thực hiện đường lối “Đổi mới” của Đảng, Việt
Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, trong đó phải kể đến sự tham gia sâu
rộng và thực chất vào tiến trình hội nhập quốc tế và đang có những bước vững
chắc trong việc thực hiện mục tiêu có tính chiến lược là xây dựng thành công
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Những
thay đổi đó trong chính sách và mục tiêu phát triển đất nước, có tác động không
nhỏ tới đời sống pháp luật của quốc gia, bởi pháp luật vừa là bộ phận của
thượng tầng, đồng thời cũng đã được xác định là phương tiện chủ yếu và quan
trọng bậc nhất trong tổ chức và quản lý xã hội.
Sự
thay đổi về tính chất, quan niệm và vai trò của pháp luật luôn kèm theo sự thay
đổi của nguồn pháp luật. Bởi pháp luật và nguồn pháp luật là hai phạm trù luôn có
mối tác động qua lại chặt chẽ với nhau và được coi là song hành về bản chất.
Trong
khuôn khổ nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung phân tích những thay đổi của
nguồn pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay dưới những tác động
từ sự tham gia tích cực của Việt Nam vào tiến trình hội nhập quốc tế và xây
dựng nhà nước pháp quyền như là những nhân tố có tính tất yếu, khách quan.
2. Nhà nước pháp quyền và hội nhập
quốc tế - những nhân tố quan trọng làm thay đổi nhận thức về nguồn pháp luật ở
Việt Nam
a) Nhân tố nhà nước pháp quyền
Thuật ngữ “Nhà
nước pháp quyền” đã trở nên phổ biến ở phương Tây từ nhiều thế kỷ trước và đến
nay đã có nhiều quốc gia lựa chọn Nhà nước pháp quyền như là mô hình tối ưu
nhất để xây dựng và tổ chức quyền lực, trong số đó không ít quốc gia về cơ bản
đã thành công.
Hiện nay, ở Việt
Nam Nhà nước pháp quyền là một trong những thuật ngữ được nhắc đến, tranh luận
nhiều nhất ở trong khoảng hơn một thập niên trở lại đây. Thuật ngữ này được
biết đến một cách chính thức lần đầu tiên tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ
VII (1994) khi tại Hội nghị Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “nhà nước pháp
quyền” và nêu khá cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam “tiếp tục xây dựng và từng bước
hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời
sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước
pháp quyền Việt Nam được
xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên
minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng
ta lãnh đạo.
Dù vậy, đến nay kể
cả ở Việt Nam cũng như trên bình diện quốc tế, vẫn còn chưa thống nhất được về
mặt lý luận, nhà nước pháp quyền là gì; nhà nước này có những giá trị chung,
bất biến hay tùy vào từng điều kiện cụ thể mà lại có nhà nước pháp quyền “mang
màu sắc”, “đặc trưng” riêng… Sự chưa thống nhất còn thể hiện ở sự biểu đạt một
cách đa dạng thuật ngữ “Rechtsstaat”[1]
bằng tiếng Anh: “The rule of law”, “The rule of law state”, “The legal state”,
“The state of law”…
Dù vậy, trong
khoa học cũng như thực tiễn, những đặc trưng nhất, điều kiện tối thiểu cần phải
có của nhà nước pháp quyền, về cơ bản, cũng đã được xác định. Theo đó, nhà nước
pháp quyền không phải là một kiểu hay hình thức nhà nước mà thường được coi như
là lý thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước trên cơ sở đảm bảo sự tối thượng của
nền pháp luật dân chủ, bình đẳng, minh bạch trong xã hội, có cơ chế sự phân
quyền hợp lý nhằm giới hạn, kiểm soát và giám sát quyền lực với mục tiêu cao
nhất là bảo vệ và phát triển con người.
Vậy nhà nước pháp quyền có tác động như thế nào đến
sự đa dạng của nguồn pháp luật trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
Xuất phát từ những yêu
cầu và các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền, có thể thống nhất ở những
điểm sau:
Trước
hết, khi nói đến nhà nước pháp quyền là nói đến một nhà nước dân chủ, khẳng
định chủ quyền của nhân dân và nhân quyền. Người dân
thông qua bản Hiến pháp của mình thiết lập các nguyên tắc cơ bản nhất của tổ
chức và vận hành bộ máy quyền lực, cũng như các nguyên tắc làm nền tảng cho
toàn bộ hệ thống pháp luật. Nhà nước được tạo ra bởi nhân dân trên cơ sở của
bản Hiến pháp với chức năng như là văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất, là nền
tảng của toàn bộ hệ thống pháp luật, là cơ sở để tổ chức và vận hành chính
quyền. Khi Hiến pháp được làm bởi nhân thì pháp luật sẽ luôn phản ánh ý chí,
nguyện vọng và nhu cầu của người dân. Vì không phải là “ý chí của giai cấp” cầm
quyền, pháp luật trong nhà nước pháp quyền phản ánh một cách chính xác lợi ích,
nhu cầu xã hội, là những giá trị, chuẩn mực mà cộng đồng muốn hướng đến để bảo
vệ trật tự chung, công bằng, công lý và đảm bảo quyền, tự do của mỗi con người
trong mối tương quan với cộng đồng. Vì vậy, pháp luật lúc này có thể là tất cả
những gì có thể hướng đến để đạt được những mục đó mà không nhất thiết phải
luôn là những hình thức văn bản quy phạm do cơ quan lập pháp hoặc được ủy quyền
ban hành. Pháp luật cũng có thể là những quy tắc cổ xưa được hình thành trong
cộng đồng, được cộng đồng đó chấp nhận và truyền từ đời này sang đời khác để
điều chỉnh những mối quan hệ. Pháp luật cũng có thể là những quy tắc xử sự của
những hiệp hội trong hoạt động giao thương hay đơn thuần là những những quyết
định được thừa nhận làm chuẩn mực làm mẫu cho việc giải quyết những vụ việc về
sau… Tất cả những quy tắc xử sự đều có thể trở thành luật nếu qua đó giúp đạt
được sự công bằng, bình đẳng cũng như các mục đích khác của luật pháp, không
trái với tinh thần lập hiến và được nhà nước đảm bảo thực hiện.
Thứ
hai, nhà nước pháp quyền là nhà nước khẳng định sự thượng tôn của pháp luật,
luôn có sự giám sát, kiểm soát và cân bằng quyền lực.
Không có ai ở trên pháp luật, kể cả nhà nước. Bản thân nhà nước cũng được thiết
kế bởi luật pháp mà cao nhất là Hiến pháp. Nhân dân dù là chủ thể của quyền lực
nhà nước, nhưng chính họ cũng bị ràng buộc bởi những quy định lập hiến. Trong
nhà nước pháp quyền, nhà nước chỉ là phương tiện để đạt được những mục tiêu mà
pháp luật đã đặt ra. Lập pháp là quyền được phái sinh từ quyền lập hiến mà ra.
Lập pháp cũng chỉ là một trong muôn vàn hoạt động khác của nhà nước nhằm thực
thi nhiệm vụ của pháp luật. Lập pháp có chức năng làm luật, nhưng trong cơ chế
luôn có sự kiểm soát, giám sát và cân bằng quyền lực thì không phải là cơ quan
duy nhất có quyền làm luật.
Thứ
ba, nhà nước pháp quyền là nhà nước có xã hội công dân phát triển.
Xã hội công dân trong nhà nước pháp quyền là xã hội mà ở đó người dân đạt tầm
nhận thức và ý thức pháp luật ở mức cao cùng với nền kinh tế hàng hóa phát
triển cao đáp ứng tốt yêu cầu của xã hội; quyền tư hữu cũng như các quyền, tự
do cá nhân được tôn trọng và đảm bảo; có sự giám sát và phản biện xã hội đối
với nhà nước và có sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức phi nhà nước cũng như
các quy phạm xã hội. Sự phát triển của
nền kinh tế, giao thương, hiệp hội, quy tắc nghiệp đoàn, sự tự do… là điều kiện
không thể tốt hơn cho sự đa dạng hóa các nguồn luật trong hệ thống pháp luật
quốc gia.
b)
Về
hội nhập quốc tế
Hội
nhập hay hội nhập quốc tế đang được coi là xu thể phổ biến của xã hội hiện đại
bởi nó xuất phát từ chính thuộc tính xã hội của con người, của lao động và nhu
cầu giao tiếp, trao đổi nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của cá nhân, cộng đồng. Dù
phổ biến đến vậy, nhưng vẫn chưa có được sự đồng thuận khi xác định khái niệm
hội nhập quốc tế. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả này tỏ sự đồng tình với
khái niệm được đưa ra bởi TS. Phạm Quốc Trụ trong bài viết “Hội nhập quốc tế:
Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn”. Theo đó, “Hội nhập quốc tế được hiểu
như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với
nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực
(thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn
khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế.”[2]
Nội hàm khái
niệm Hội nhập quốc tế bao gồm: 1) Hội
nhập kinh tế quốc tế (Đây là quá trình gắn kết
các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ
lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình thức khác nhau, từ đơn
phương, đến song phương, tiểu khu vực/vùng, khu vực, liên khu); 2) Hội nhập chính trị (là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế quyền lực tập
thể (giữa hai hay nhiều nước) nhằm theo đuổi những mục tiêu nhất định và hành
xử phù hợp với các luật chơi chung); 3) Hội nhập an ninh – quốc phòng (là sự tham
gia của quốc gia vào quá trình gắn kết họ với các nước khác trong mục tiêu duy
trì hòa bình và an ninh); 4) Hội
nhập văn hóa, xã hội (là quá trình mở cửa, trao
đổi văn hóa với các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế
giới; tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu
nền văn hóa dân tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển
văn hóa-giáo dục và xã hội khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên
hướng tới xây dựng một cộng đồng văn hóa-xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu
vực và toàn cầu).
Hội
nhập quốc tế là một quá trình tất yếu. Các cá nhân muốn tồn tại và phát triển
phải có quan hệ và liên kết với nhau tạo thành cộng đồng. Nhiều cộng đồng liên
kết với nhau tạo thành xã hội và các quốc gia-dân tộc. Các quốc gia lại liên
kết với nhau tạo thành những thực thể quốc tế lớn hơn và hình thành hệ thống
thế giới.
Sự
ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các thị trường
quốc gia, hình thành thị trường khu vực và quốc tế thống nhất. Đây là động lực
chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc
tế nói chung.
Cùng
với đường lối Đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI, đến đường lối đối ngoại mở
cửa, đa phương và hội nhập được ghi nhận từ Hiến pháp 1992, và trên hết là Nghị
quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam chuyên về hội nhập
quốc tế,[3] Việt Nam đã chứng minh sự
tham gia ngày càng sâu rộng và thực chất vào tiến trình hội nhập quốc tế như là
xu thế phổ biến của thời đại.
Quá
trình hội nhập của Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào sự chuyển biến về hệ
thống pháp luật quốc gia. Hội nhập luôn được hiểu là việc xích lại gần những
tiêu chuẩn chung của thế giới và việc xích lại gần nhau của các chủ thể tham
gia tiến trình hội nhập. Hệ quả là sự xích lại gần nhau là sự cải cách hệ thống
pháp luật quốc gia, tiếp nhận pháp luật nước ngoài... Quan niệm về pháp luật ,nguồn
pháp luật nhờ thế cũng chuyển biến theo. Khi tham gia vào trò chơi với nhiều
đối tượng, chủ thể khác nhau tham gia luật chơi đương nhiên phải thay đổi cho
phù hợp. Hội nhập có nghĩa không thể lấy “lệ làng” của mình ra để “ứng xử” với
“khách”. Hội nhập là tự phải thay đổi cho phù hợp với mọi người, tiệm cận với
những chuẩn mực chung. Hội nhập cũng có nghĩa là học hỏi những tư tưởng mới,
phương pháp, cách thức tiếp cập tiến bộ để bảo vệ tốt nhất nhu cầu, lợi ích của
dân tộc mình. Sự đa dạng về chủ thể, văn hóa, quan hệ, đối tượng, tư tưởng…
trong tiến trình hội nhập cũng như những đòi hỏi của chuẩn mực chung có lẽ cũng
góp phần không nhỏ làm chuyển biến quan niệm về pháp luật, trong đó trước hết
là quan niệm cũng như nhu cầu mở rộng nguồn pháp luật của mỗi quốc gia.
3.
Thực trạng hệ thống nguồn pháp luật Việt Nam hiện nay
Cho
đến nay, nội hàm của khái niệm nguồn pháp luật trong khoa học pháp lý cũng như
thực tiễn ở Việt Nam vẫn chưa được xác định một cách thống nhất. Nguồn pháp
luật là gì, có những loại nguồn pháp luật nào trong hệ thống pháp luật của Việt
Nam..? Vẫn là những vấn đề còn gây nhiều tranh cãi. Tác giả Nguyễn Thị Hồi cho
rằng, nguồn pháp luật chính là tất cả các căn cứ được chủ thể có thẩm quyền sử
dụng làm cơ sở để xây dựng, ban hành, giải thích pháp luật cũng như để áp dụng
vào việc giải quyết các vụ việc xảy ra trong thực tế.[4] Theo tác giả này, nguồn
pháp luật bao hàm cả nguồn hình thức, nguồn nội dung và cả nguồn mang tính chất
hỗn hợp. Nguồn pháp luật có thể là: đường lối chính sách của Đảng, nhu cầu quản
lý kinh tế-xã hội của đất nước, các tư tưởng học thuyết pháp lý, các nguyên tắc
chung của pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật, các điều ước quốc tế, phong
tục tập quán, án lệ hay các quyết định, bản án của tòa án, quy tắc của các hiệp
hội nghề nghiệp.[5]
Ở
một số công trình khoa học pháp lý Việt Nam, nguồn pháp luật được hiểu là nơi
chứa đựng các quy tắc pháp luật hoặc các giải pháp pháp lý để áp dụng cho các
trường hợp tranh chấp xảy ra trong tương lai. Về mặt lý luận, nguồn pháp luật
được xem là hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật.[6] Nguồn pháp luật, theo
truyền thống pháp luật Xô-viết, được coi là cách thức mà giai cấp thống trị sử
dụng để thể hiện ý chí của mình thành pháp luật và cho rằng, có ba cách thức để
nâng ý chí giai cấp thống trị lên thành luật đó là: Tập quán pháp, tiền lệ pháp
và văn bản quy phạm pháp luật.[7]
Cũng
không ít nhà khoa học cho rằng, cần hiểu nguồn pháp luật theo hai nghĩa: là
nguồn vật chất và nguồn pháp lý. Theo đó, nguồn vật chất là thực tiễn cuộc sống
xã hội (kinh tế, chính trị, tôn giáo, đạo đức, truyền thống, tinh thần…) đã tạo
nền tảng vật chất cho việc tạo ra pháp luật. Nguồn pháp luật hiểu theo nghĩa
pháp lý là hình thức biểu hiện của các quy phạm pháp luật.
Như
vậy, có thể thấy, chỉ riêng vấn đề xác định khái niệm nguồn pháp luật ở Việt
Nam cũng đã có nhiều ý kiến khác nhau, từ đây có thể thấy việc khó xác định ở
Việt Nam có bao nhiêu nguồn luật là không thể tránh khỏi, bởi khái niệm nguồn
pháp luật luôn gắn chặt với nội hàm cuả nó, nghĩa là xác định khái niệm nguồn
pháp luật như thế nào thì sẽ cho ra những loại nguồn pháp luật như thế.
Dù
vậy, một điều có thể nhận thấy là hiện nay, ở Việt Nam, về cơ bản, nếu chỉ dừng
lại ở việc hiểu nguồn pháp luật như là hình thức biểu hiện của pháp luật thì
cũng không đa dạng như trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia trên thế
giới. Bởi, từ quan niệm đến thực tiễn, ở Việt Nam luôn coi văn bản quy phạm
pháp luật là nguồn chủ yếu và thậm chí có những thời điểm được cho là duy nhất.
Chỉ có những quy phạm pháp luật được quy định trong một văn bản mà được xác
định trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới được coi là nguồn pháp
luật. Điều này xuất phát từ tư tưởng pháp luật Xô-viết, khi mà pháp luật luôn
được coi là tất cả những gì gắn với nhà nước và chỉ có nhà nước mới ban hành ra
luật.
Hiện
nay, trên thực tế, tư duy ấy vẫn còn hiện hữu, khi về cơ bản văn bản quy phạm
pháp luật vẫn được coi là nguồn quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật quốc
gia. Dù vậy, các loại nguồn khác cũng đã phát huy vị thế và vai trò của
mình như tập quán pháp.[8]Án lệ hay Tiền lệ pháp chưa
được coi là nguồn chính thức của pháp luật Việt Nam, nhưng trên thực tế với
những phương thức và cách thức khác nhau, “án lệ” đã hiện diện trong những
quyết định, phán quyết của hệ thống tòa án nhân dân. Cùng với sự ra đời của của
Nghị quyết số 48 –NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW năm 2005 của Bộ Chính trị Ban
Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp, án lệ cũng như tập quán pháp đang
có những động lực cho sự pháp triển: “Nghiên
cứu về khả năng khai thác, sử dụng án
lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của
các hiệp hội nghề nghiệp góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật… ” (Nghị
quyết số 48-NQ/TW) và “Tòa án nhân dân
tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ…” (Nghị quyết số
49-NQ/TW).
Bên
cạnh đó, cùng với sự bùng nổ của quan hệ hợp tác quốc tế, trong hệ thống pháp
luật Việt Nam ngày càng nhiều điều ước quốc tế và vai trò của nó trong điều
tiết các quan hệ, tranh chấp quốc tế, có yếu tố nước ngoài ngày càng phát triển
và trở nên quan trọng. Tuy nhiên, vị thế chính thức của nó vẫn còn chưa được
xác định rõ.
Như
vậy, nếu đem so với hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, hệ
thống nguồn pháp luật của Việt Nam hiện nay về cơ bản vẫn còn đơn điệu,[9] chưa tương xứng và chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới: thời đại pháp
quyền và hội nhập.
4.
Mở rộng và phát triển các loại nguồn pháp luật ở Việt Nam hiện nay
– một tất yếu khách quan.
Ở trên
đã phân tích những thuộc tính bản chất, đặc trưng và những tác động có tính
chất định hướng cơ bản của nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế lên hệ thống
pháp luật pháp luật cũng như sự lựa chọn có tính tất yếu khách quan của Việt
Nam khi xác định xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế là hai mục
tiêu chiến lược để phát triển đất nước. Trong khuôn khổ phần trình bày này, tác
giả sẽ đi vào phân tích những tác động có tính chất như là hệ quả tất yếu của
việc lựa chọn xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế lên việc phát
triển và mở rộng các loại nguồn trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
-
Về tính tất yếu khách quan của việc công nhận và phát triển án lệ
(tiền lệ pháp).
Nói
về sự cần thiết phải công nhận án lệ trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp
quyền và hội nhập quốc tế, tác giả xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau
đây:
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm cơ
bản của nhà nước pháp quyền là quyền con người được tôn trọng, ghi nhận và đảm
bảo. Nhà nước pháp quyền chính là nhà nước bảo vệ nhân quyền. Trong nhà nước pháp quyền quyền tiếp cận công lý
cần phải được khẳng định. Thẩm phán không thể từ chối xem xét và xử lý vụ việc
chỉ vì lý do chưa có luật. Từ chối xét xử vì lý do chưa có luật là vi phạm
quyền được tiếp cận công lý của người dân.
Thực
tế cho thấy, nhà làm luật không thể nào dự liệu hết được tất cả mọi tình huống
trên thực tiễn và chắc chắn pháp luật, dù cố gắng đến mấy, vẫn luôn có những
khoảng trống và lỗ hổng. Hơn nữa, lập pháp là hoạt động của những người đại
diện, của những chính trị gia, không phải lúc nào và tất cả đều là những chuyên
gia pháp luật, nên dù hoàn thiện đến mức nào pháp luật vẫn cần được giải thích
để áp dụng. Nếu không có những người chuyên nghiệp, có thẩm quyền để giải thích
tối ưu nhất, hợp hiến nhất và thống nhất nhất thì hoạt động giải thích pháp
luật luôn tiềm ẩn nguy cơ đi lệch “quỹ đạo”, tư tưởng ban đầu của pháp luật và
cuối cùng tiềm ẩn nguy cơ vi phạm nhân quyền.
Hiện
nay, hoạt động giải thích pháp luật vẫn chưa được trao cho tòa án. Thực tế hoạt
động giải thích pháp luật của UBTVQH cũng như hướng dẫn áp dụng pháp luật của
hệ thống cơ quan hành pháp hoặc chưa đảm bảo được hiệu quả, hoặc mang tính cục
bộ, thiếu thống nhất dẫn đến nguy cơ vi phạm quyền, tự do của con người, quyền
cơ bản của công dân.
Ngoài
ra, hoạt động xét xử là hoạt động xuất phát từ thực tế năng động, biến đổi của
xã hội, trong khi đó quy phạm trong văn bản pháp luật lại cần có thời gian (đôi
khi là rất dài) và quy trình sửa đổi kể từ khi phát hiện ra nhu cầu của xã hội.
Trong trường hợp này, án lệ là sự bổ sung phù hợp và cần thiết để bảo vệ con
người trong nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền với pháp luật luôn có vị
trí thượng tôn và là phương tiện đáng tin cậy nhất, hữu hiệu nhất để bảo vệ,
điều chỉnh các hành vi của con người. Nếu không có pháp luật, hoặc pháp luật
không phù hợp thì các cá nhân, tổ chức trong xã hội vẫn sẽ phải tìm cách bảo vệ
mình, nhưng khi đó sẽ bằng những con đường phi chính thức, phi pháp luật. Trong
bối cảnh ấy, không thể có nhà nước pháp quyền.
Thứ hai, án lệ (tiền lệ pháp) với
tư cách là nguồn luật trên thực tế đã được nhiều quốc gia trên thế giới vận
dụng thành công để đa dạng hóa các loại nguồn pháp luật của quốc gia mình. Ở
các quốc gia như Pháp, Đức, Nhật,…[10] tiền lệ pháp đã được áp
dụng và được coi như là nguồn luật bổ sung rất quan trọng trong hệ thống pháp
luật của quốc gia mình. Các quốc gia nói trên đều được coi là những nước có
truyền thống pháp luật Civil law và trên khía cạnh nào đó về nguồn luật có nhiều
điểm tương đồng với Việt Nam.
Thứ ba, khi hội nhập quốc tế, tham
gia vào các tổ chức quốc tế, ký kết các thảo thuận song, đa phương, ngoài quyền
lợi, Việt Nam luôn cần phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình. Việc gia
nhập WTO cuối năm 2006 đã cho chúng ta nhiều cơ hội phát triển, tuy nhiên cần
phải thực hiện các cam kết với tư cách là một thành viên của tổ chức đó. Một
trong những yêu cầu cơ bản của WTO là cần phải công khai các quyết định của tòa
án và phải minh bạch các quyết định ấy. Thực hiện cam kết này, Việt Nam đã từng
bước công khai các phán quyết của tòa án, nhất là Tòa án nhân dân tối cao. Việc
công khai minh bạch các phán quyết, không chỉ tạo điều kiện cho người dân quyền
được tiếp cận thông tin, mà qua đó, đã thúc đẩy sự phát triển của án lệ như là
một nguồn luật. Thực tế, một mặt, trong quá trình tiếp cận công lý, các chủ thể
dễ dàng tìm kiếm các vụ việc tương tự đã được xét xử nhưng có lợi cho mình để
đưa ra lập luận trước tòa đòi bảo đảm quyền lợi. Mặt khác, khó có thể khẳng
định rằng, tòa án cấp dưới đã không bị ảnh hưởng, thậm chí không tham khảo
những phán quyết đã được các đồng nghiệp ban hành về vụ việc tương tự mà mình
đang phải đối mặt. Rõ ràng, không sớm thì muộn, văn hóa tiền lệ cũng sẽ trở nên
quen thuộc với các thành viên trong cộng đồng xã hội. Thực tế cho thấy, “án lệ”
đã và đang được áp dụng một cách âm thầm và linh hoạt trong thực tiễn pháp luật
Việt Nam.
Thứ tư, án lệ có rất nhiều ưu
điểm. Theo các nhà nghiên cứu Anh, Mỹ, án lệ có những ưu điểm cơ bản như: 1) các đối tượng liên quan
trong vụ án có thể biết trước các hậu quả pháp lý của vụ việc vì họ biết các
quyết định này không phải là các quyết định tùy tiện của các thẩm phán mà các
thẩm phán đã dựa vào các quyết định của các vụ việc trước đó; 2) tiền lệ được đưa ra từ
thực tiễn, trong khi các đạo luật lại ít nhiều căn cứ vào lý thuyết và suy luận
mang tính lô gích; tiền lệ hình thành từ các hoàn cảnh khác nhau trong đời sống
do đó nó điều chỉnh được hầu hết các quan hệ xã hội phát sinh; 3) tiền
lệ tạo điều kiện cho thẩm phán đưa ra nhiều tư tưởng mới trong lĩnh vực áp dụng
pháp luật tùy theo điều kiện, hoàn cảnh xã hội phát sinh ra các quan hệ pháp
luật; 4) tính linh hoạt của tiền lệ pháp, thuộc tính này phụ hợp với sự thay
đổi nhanh chóng của xã hội. Trong khi sự thay đổi các văn bản quy phạm pháp
luật cần phải một thời gian nhất định thì tiền lệ pháp lại đáp ứng ngay những
đòi hỏi của thực tiễn.[11]
Thứ năm, tính tất yếu của án lệ đến
từ thuộc tính của nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền là nhà nước phân
quyền. Sự phân quyền giữa các nhánh quyền lực, giữa quyền lực trung ương và địa
phương cùng với cơ chế giám sát và kiểm soát trong tổ chức quyền lực, tòa án mà
trên hết là thẩm phán được đảm bảo sự độc lập và tính chuyên nghiệp trong hoạt
động của mình. Điều này sẽ góp phần nâng cao uy tín của hệ thống tư pháp cũng
như chất lượng và tính công bằng, công lý của mỗi phán quyết. Điều này sẽ góp
phần nâng cao vị thế của phán quyết tư pháp và cuối cùng sẽ có những ảnh hưởng
nhất định cho việc hình thành đường lối áp dụng pháp luật có tính chất tiền lệ
hoặc chí ít thì cũng nâng cao vai trò tổng kết xét xử, giải thích áp dụng pháp
luật của tư pháp.
Thứ sáu, một lý do nữa, tuy không
hết sức cấp thiết nhưng cũng góp phần để án lệ có điều kiện phát triển ở Việt
Nam là khi thực hiện cam kết công khai và minh bạch các bản án là ở chỗ, tài
phán của Việt Nam cần phải hoàn thiện chính mình để đưa ra những bản án có chất
lượng, tiệm cận công lý để các đối tác nước ngoài có thể tin tưởng và sử dụng
tài phán trong nước để giải quyết các vấn đề của mình. Áp lực đổi mới, sự ảnh
hưởng từ chính các lập luận, tư duy của các bên (nhất là trong các vụ việc có
yếu tố nước ngoài) thẩm phán sẽ hoàn thiện và cũng sẽ quen dần với tư duy tiền
lệ.
-
Tính tất yếu của việc phát triển, nâng cao vị thế, vai trò của Tập
quán pháp
Tập
quán pháp cả trên phương diện pháp lý lẫn thực tiễn đã được coi là nguồn của
pháp luật Việt Nam hiện nay. Dù vậy, do còn có nhiều những điểm chưa rõ ràng về
mặt lý luận, điều kiện, phương thức, phạm vi áp dụng, trình độ nhận thức, hiểu
biết của thẩm phán cũng như thiếu những thông tin về tập quán, cho đến nay việc
áp dụng tập quán như là nguồn pháp luật trên thực tế còn nhiều bất cập và chưa
được áp dụng phổ biến.[12]
Tuy
nhiên, cùng với những ảnh hưởng mạnh mẽ từ việc thực hiện chiến lược hội nhập
quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền, tập quán pháp đang dần trở thành nguồn
pháp luật quan trọng trọng hệ thống pháp luật Việt Nam.
Định
hướng xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế sẽ góp phần phát triển
tập quán pháp bởi những nguyên nhân khách quan sau đây:
Thứ nhất, việc xây dựng nhà nước
pháp quyền và hội nhập quốc tế chắc chắn sẽ tạo ra những cũ hích để thúc đẩy và
phát triển nhân quyền, bởi mục tiêu của nhà nước pháp quyền chính là bảo vệ
nhân quyền và quá trình hội nhập cũng luôn có những cam kết thúc đẩy và bảo vệ
nhân quyền. Một trong những vấn đề quan trọng nhất của nhân quyền là quyền tiếp
cận công lý, tiếp cận những phương thức pháp lý để bảo vệ quyền của mình. Bên
cạnh đó, việc tạo điều kiện thuận lợi và bảo vệ quyền của nhóm người yếu thế,
người thiểu số càng phải được lưu tâm.
Việt
Nam là một quốc gia với 54 thành phần dân tộc. Dân tộc Kinh chiếm đa số và
thường cư trú ở những vùng đồng bằng, thuận lợi cho giao thương, phát triển
kinh tế. Trong đó, đa phần các dân tộc, nhất là dân tộc ít người lại thường cư
trú ở các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng rừng núi…
Mỗi dân tộc lại có văn hóa, truyền thống và tập tục của mình, tiếng nói của
mình về hầu như đều có mong muốn giữ gìn bản sắc ấy. Bên cạnh đó, do việc cư
trú ở vùng sâu, vùng xa, khó khăn cho việc đi lại, đặc thù về ngôn ngữ, nên
việc tiếp cận các văn bản pháp luật, dịch vụ pháp lý để giải quyết các vấn đề,
tranh chấp phát sinh trong cộng đồng, bảo vệ quyền lợi của mình là không hề dễ
dàng. Hơn nữa, các văn bản pháp luật thường khó hiểu, khó tiếp cận, xa lạ về
văn hóa truyền thống. Điều này dẫn tới việc áp dụng tập quán để giải quyết các
vấn đề của cá nhân, cộng đồng là không tránh khỏi. Đứng trước yêu cầu đó, nhà
nước cần có chiến lược bài bản hơn để tập quán được áp dụng một cách phổ biến
hơn, phù hợp hơn với yêu cầu và nguyên tắc pháp quyền.
Thứ
hai, trong xu thế pháp quyền dân chủ và hội nhập, những quy tắc xử sự xuất phát
từ dân, thể hiện truyền thống và ý chí của dân của cộng đồng luôn được tôn
trọng và phát triển. Tập quán xuất phát từ các phong tục, truyền thống của cộng
đồng dân cư vì vậy sẽ dễ được chấp nhận, được thừa nhận và phát triển. Coi
trọng và phát triển tập quán thành nguồn của pháp luật là minh chứng cho một
thể chế và xã hội dân chủ.
Thứ ba, tập quán pháp có xuất xứ
rất đa dạng, được tồn tại lâu đời, đã được chấp nhận trong cộng đồng sẽ là một
sự bù đắp, bổ sung kịp thời cho sự thiếu hụt và đôi khi cứng nhắc, thiếu tính
truyền thống của hệ thống văn bản pháp luật trong bối cảnh ngày càng cần nhiều
những phương thức pháp lý để giải quyết các vấn đề luôn xảy ra trong một xã hội
hội nhập đầy biến động.
Thứ tư, coi trọng và phát triển
tập quán pháp vừa là minh chứng cho một nhà nước coi trọng truyền thống dân
tộc, nhưng đồng thời lại giải quyết được cả hai nhiệm vụ lớn: hội nhập và giữ
gìn bản sắc, văn hóa truyền thống của dân tộc trước nguy cơ “xâm lăng” văn hóa
trong bối cảnh hiện nay. Các quốc gia sẽ coi trọng và phát triển tập quán như
là loại nguồn pháp luật và coi đây là chiến lược vừa giúp bảo vệ dân chủ, nhân
quyền, lại vừa giữa gìn truyền thống văn hóa đồng thời cũng không làm trái
những cam kết quốc tế với tư cách một nhà nước tham gia vào tiến trình hội
nhập.
-
Việc phát triển các tập quán quốc tế, thói quen thương mại quốc
tế, điều ước quốc tế như là loại nguồn của hệ thống pháp luật Việt Nam.
Việc
tham gia vào các tiến trình hội nhập văn hóa, chính trị, kinh tế và vào các
chuỗi cung ứng toàn cầu buộc Việt Nam phải thực thi các cam kết quốc tế của
mình. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy việc công nhận các tập quán thương mại, các
thói quen thương mại giữa các chủ thể có quốc tịch khác nhau là nhu cầu cấp
thiết xuất phát từ lợi ích của mỗi chủ thể. Nhà nước với tư cách là chủ thể
điều tiết cần thiết và có nghĩa vụ thừa nhận, bảo đảm thực thi các tập quán để
tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển kinh tế và tạo lợi thế cho các tổ
chức, cá nhân mà nhà nước bảo trợ.
Cho
đến nay, cùng với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống quốc tế Việt Nam
đã tích cực và chủ động tham gia, ký kết các loại hình khác nhau của điều ước
quốc tế. Điều ước quốc tế ngày càng có vai trò quan trọng trong hệ thống pháp
luật Việt Nam. Khi càng mở rộng tham gia vào các tổ chức quốc tế, càng hội
nhập, số lượng điều ước quốc tế được Việt Nam ký kết, phê chuẩn ngày càng tăng
thì vai trò của nó như là loại nguồn pháp luật chắc chắn sẽ lớn hơn rất nhiều
so với thời điểm hiện nay.
-
Lẽ phải, công bằng và các tư tưởng học thuyết pháp lý như là loại
nguồn của pháp luật Việt Nam
Hiện
nay, lẽ phải, công bằng hay học thuyết pháp lý, ở chừng mực nào đó, được coi là
nguồn vật chất hay nguồn nội dung của hệ thống pháp luật nước ta, còn với tư
cách là một nguồn hình thức thì chưa được thừa nhận.
Tuy
nhiên, với sự phát triển của xu thế hội nhập, sự du nhập các tư tưởng pháp lý
là điều không tránh khỏi. Bản thân nhà nước pháp quyền như là một học thuyết
pháp lý cũng được du nạp từ tư tưởng chính trị pháp lý của phương Tây khoảng
vài thập niên gần đây. Tuy nhiên đến nay nó đã trở thành một mục tiêu có tính
chiến lược của nhà nước.
Lẽ
phải, công bằng cùng với sự phát triển của tư tưởng pháp luật tự nhiên đã dần
dần chiếm vị trí quan trọng trong tư tưởng pháp lý Việt Nam. Rõ ràng, pháp luật
đã không còn được coi đươn thuần là ý chí của giai cấp thống trị, mà pháp luật
đã dần được coi là hiện thân của chân lý, công bằng và cái thiện. Với xu thế
phát triển hiện nay, công bằng, lẽ phải và tư tưởng pháp lý có cơ hội rất lớn
để trở thành nguồn bổ sung quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nhất
là bổ sung trong những trường hợp khiếm khuyết, lỗ hổng của pháp luật Việt Nam.
5. Kết luận
Nguồn
pháp luật là một trong những vấn đề quan trọng không chỉ trong khoa học pháp lý
mà còn ở thực tiễn thực thi pháp luật. Quan niệm về nguồn pháp luật luôn gắn
liền một cách hữu cơ với quan niệm về pháp luật và ngược lại.
Việt
Nam là quốc gia mà hệ thống pháp luật chịu nhiều sự ảnh hưởng của truyền thống
pháp luật Á Đông, văn hóa pháp luật Pháp và tư duy, mô hình pháp luật Xô-viết.
Điều này đã làm nên bức tranh pháp luật Việt Nam có nhiều nét chấm pháp của
pháp luật thực định, chủ nghĩa thực chứng, coi trọng văn bản pháp luật có xuất
xứ từ quyền lực nhà nước. Cùng với đó là vị trí gần như là độc tôn của văn bản
pháp luật trong hệ thống nguồn pháp luật ở Việt Nam.
Tuy
nhiên, cùng với sự tham gia tích cực của Việt Nam vào tiến trình hội nhập quốc
tế và chiến lược xây dựng nhà nước pháp quyền, bức tranh pháp luật, mối tương
quan của nguồn pháp luật đã dần thay đổi, phù hợp hơn với xu thế chung của nhân
loại. Cùng với văn bản pháp luật, trong hệ thống pháp luật Việt Nam sẽ ngày
càng trở nên quan trọng hơn vai trò của điều ước quốc tế, tập quán pháp, tập
quán quốc tế, thói quen thương mại quốc tế và các nguồn pháp luật phi truyền
thống khác như tiền lệ pháp, lẽ phải, sự công bằng và thậm chí là các quy tắc
của các hiệp hội. Đây là bước phát triển mang tính chất khách quan, tất yếu bởi
nó không chỉ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà nước của một nhóm người, mà
chủ yếu là từ của chính chu cầu xã hội và xu thế phát triển tất yếu trong thời
đại pháp quyền và hội nhập quốc tế./.
[1] Thuật ngữ được dùng lần đầu tiên
bởi nhà triết học, nhà tư tưởng người Đức I. Can-tơ
[2] Xem trên: http://nghiencuubiendong.vn/toan-cau-hoa-hoi-nhap-kinh-te/2014-hoi-nhap-quoc-te-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien
[3] Ban hành ngày 10/04/2013
[4] TS. Nguyễn Thị Hồi, Về khái niệm
nguồn của pháp luật, Tạp chí luật học, số 2/2008. tr.29.
[5] Ts. Nguyễn Thị Hồi, Các loại
nguồn của pháp luật Việt Nam hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 112 (128)
tháng 8/2008.
[6] Khoa Luật trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội, Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 1993.
tr.345.
[7] Trường Đại học
Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009, tr. 353.
[8] Xem thêm: Báo cáo nghiên cứu:
Tập quán pháp – Thực
trạng ở Việt Nam và một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của áp dụng tập quán
ở Việt Nam. Dự án tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam
(00058492), Vụ hợp tác quốc tế, TANDTC, 2013 do Nguyễn Như Quỳnh, Nguyễn Quốc
Việt và Nguyễn Hoàng Phương thực hiện.
[9] Theo tác giả Nguyễn Mạnh Thắng,
ở nhiều quốc gia phương Tây, nguồn luật có thể bao gồm: 1) Văn bản pháp luật:
văn bản lập pháp và văn bản lập pháp ủy quyền; 2) Tiền lệ pháp: Báo cáo pháp
luật và án lệ; 3) Tập quán pháp; 4) Thói quen ứng xử; 5) Hợp đồng giữa các bên;
6) Học thuyết pháp lý; 7) Lẽ công bằng. Tất cả những nguồn này có thể là nguồn
thành văn và bất thành văn. (xem trên:
http://vnclp.gov.vn/ct/cms/tintuc/Lists/KinhNghiemQT/View_Detail.aspx?ItemID=103)
[10] Xem thêm trên: Tạp chí Toà án nhân dân tháng
2-2006 (số 3): Án lệ ở Nhật Bản; Tìm hiểu hệ thống án lệ của Cộng hòa Pháp…
[11]
Phan Nhật Thanh, Khái niệm và
những nguyên tắc cơ bản của án lệ - hình thức pháp luật đặc thù trong hệ thống
pháp luật Anh- Mỹ. Tạp chí khoa học pháp lý, số 5/2006.
[12] Cụ thể xem thêm: 1) http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=303761
(Bài: Khó áp dụng tập quán trong xét xử); 2) Báo cáo nghiên cứu:
Tập quán pháp – Thực
trạng ở Việt Nam và một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của áp dụng tập quán
ở Việt Nam. Dự án tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam
(00058492), Vụ hợp tác quốc tế, TANDTC, 2013 do Nguyễn Như Quỳnh, Nguyễn Quốc
Việt và Nguyễn Hoàng Phương thực hiện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.