Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

(Phần 2) Bàn về Cấu trúc của quy phạm pháp luật

Mai Văn Thắng
Khoa Luật, ĐHQGHN

Xin gửi Phần 2 để chúng ta cùng bàn luận. Trong phần này trên cơ sở phân định "quy phạm pháp luật" và "quy tắc pháp luật" tôi có đưa ra ý kiến về cấu trúc của quy phạm pháp luật.
Xin giới thiệu!

Một trong những vấn đề gây nhiều tranh luận nhất trong nhận thức lý luận về quy phạm pháp luật được cho là cấu trúc của quy phạm pháp luật.
Các học giả trong và ngoài nước đều cho rằng, quy phạm pháp luật là một hiện tượng pháp luật độc lập và cũng có cấu trúc riêng. Tuy nhiên, quy phạm pháp luật có cấu trúc như thế nào, được tạo thành từ những bộ phận nào lại chưa có sự thống nhất. Về cơ bản, tựu chung lại hiện tồn tại hai nhóm quan niệm về cấu trúc của quy phạm pháp luật. Nhóm thứ nhất là những quan niệm cho rằng quy phạm pháp luật có cấu trúc gồm hai bộ phận, và nhóm thứ hai - coi quy phạm pháp luật có cấu trúc ba bộ phận. Tuy nhiên, trong nhóm thứ nhất cũng có những quan điểm không giống nhau về các cấu thành của quy phạm pháp luật. Có một số học giả cho rằng, quy phạm pháp luật gồm hai phần là giả định và chỉ dẫn[1], nhưng cũng có quan niệm cho rằng quy phạm pháp luật bao gồm quy tắc và bảo đảm.[2] Theo GS người Nga N.M. Korkunov: “mỗi quy phạm pháp luật gồm hai bộ phận cấu thành: phần xác định điều kiện để áp dụng quy tắc và phần mô tả chính quy tắc (nội dung quy tắc)”.[3]
Ngược lại với nhóm thứ nhất, nhóm thứ hai, dù thống nhất ở điểm quy phạm pháp luật có cấu trúc ba bộ phận, nhưng lại có nhiều khác biệt về nội dung và tên gọi của mỗi bộ phận cấu thành đó. Theo đó, có một số học giả cho rằng, quy phạm pháp luật có ba bộ phận: giả định, quy định và bảo đảm[4] hoặc phổ biến hơn cả là quan niệm cơ cấu quy phạm ba bộ phận: giả định, quy định và chế tài.[5] Thậm chí còn có quan niệm cho rằng, không phải mọi quy phạm pháp luật đều có cấu tạo ba phần, mà cấu tạo của quy phạm pháp luật còn tùy thuộc vào loại hình quy phạm đó. Chẳng hạn, đối với quy phạm thông thường thì có cấu tạo ba bộ phận, còn các quy phạm xung đột thì chỉ có hai bộ phận phạm vi và hệ thuộc.[6]

(Phần 1) Khái niệm và đặc trưng (dấu hiệu) của quy phạm pháp luật

Mai Văn Thắng
Khoa Luật, ĐHQGHN

Hiện tôi đang thảo luận với các bạn sinh viên về một số vấn đề liên quan đến lý luận pháp luật. Thực tế, đây là những vấn đề lớn của triết học pháp luật,... rất khó, chưa có sự thống nhất. Pháp luật theo phái thực chứng được coi là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực được định ra từ phía người cầm quyền và đặt vào trong những hình thức xác định. Vậy, để tiện cho việc trao đổi, tôi cũng xin đưa mấy ý của tôi lên đây cho các bạn sinh viên đọc trước về quan niệm liên quan đến một vấn đề rất nhạy cảm - quy phạm pháp luật. Luật Ban hành VBQPPL thì cũng định nghĩa rồi, nhưng tôi cũng xin có mấy ý kiến gọi là gợi mở để cho sinh viên có không khí trao đổi, tranh luận. Pháp luật không chỉ là những quy phạm, nhưng ở Việt Nam hiện nay đa phần pháp luật vẫn được nhận thức là hệ thống các quy phạm pháp luật.

Xin giới thiệu để làm tiền đề cho những thảo luận của sinh viên!

Phần 1: (Phần 1) Khái niệm và đặc trưng (dấu hiệu) của quy phạm pháp luật

Quy phạm pháp luật là một loại quy phạm xã hội. Tuy nhiên, khác với các quy phạm xã hội khác, quy phạm pháp luật là quy tắc, chuẩn mực của hành vi mang tính phổ biến, bắt buộc chung và có mối liên hệ mang tính bản chất với quyền lực nhà nước.
Dưới góc độ hệ thống cấu trúc của pháp luật, quy phạm pháp luật là bộ phận cấu thành, nhưng là bộ phận cấu thành quan trọng nhất, là hạt nhân, nền tảng cơ sở của cả hệ thống.
Cũng như pháp luật, cho đến nay, nhận thức lý luận về quy phạm pháp luật trên thế giới và ở Việt Nam chưa có được sự thống nhất trong giới học thuật.[1] Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, bên cạnh những đặc điểm chung vốn có ở mọi loại quy phạm xã hội, quy phạm pháp luật có những đặc trưng (hay dấu hiệu) cơ bản dưới đây: