Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2019

THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP 2013 VỀ HỘI ĐỒNG BẦU CỬ QUỐC GIA

ảnh: Internet

                Thái Doãn Thành;
 Mai Văn Thắng

                 Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học:
                 "Đánh giá 05 năm thi hành Hiến pháp 
                 nước CHXHCN Việt Nam 2013
                 Khoa Luật, ĐHQGHN, 9/2018

1.     Dẫn nhập
Một trong những nội dung mới và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đời sống chính trị, nhà nước và pháp luật Việt Nam là những quy định trong Điều 117 Hiến pháp 2013 về Hội đồng Bầu cử quốc gia (HĐBCQG). Sự ra đời thiết chế hiến định này không chỉ thể hiện sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy lý luận về tổ chức, vận hành quyền lực nhà nước mà còn khẳng định nỗ lực và quyết tâm của Việt Nam hướng tới các chuẩn mực chung, phổ quát trong việc bảo đảm thực hiện các quyền dân chủ của người dân, khẳng định nền tảng dân chủ, chủ quyền nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Kể từ khi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, ngày 6 tháng 01 năm 1946 để bầu ra Quốc hội của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được tiến hành, nay là nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, nước ta đã trải qua 14 cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. Bầu cử là một trong những chế định quan trọng nhất của nền dân chủ, là cơ chế hợp pháp để người dân chuyển giao quyền lực thông qua con đường hòa bình, dân chủ, hợp pháp và văn minh. Đối với Việt Nam, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và HĐND các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Bởi vậy sự thành công hay thất bại của cả bộ máy nhà nước, của hệ thống chính quyền phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, thành quả các cuộc bầu cử. Một trong các yếu tố góp nên thành công của các cuộc bầu cử là cơ quan phụ trách công tác bầu cử. Tuy nhiên, phải đến Hiến pháp năm 2013 Hội đồng bầu cử quốc gia với tư cách là cơ quan phụ trách bầu cử toàn quốc mới có được vị trí xứng đáng như vốn có của nó - thiết chế hiến định độc lập.

Thứ Ba, 12 tháng 3, 2019

Pháp luật về xuất nhập cảnh, cư trú và lao động của người lao động nước ngoài ở các quốc gia vùng Vịnh và những gợi mở cho Việt Nam



                             Nguyễn Thị Kim Cúc
                    Mai Văn Thắng 
                       (Nguồn: Tạp chí NCLP
         số 2+3/2019)
Tóm tắt
Xuất nhập cảnh, cư trú và lao động của người lao động nước ngoài có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của mỗi quốc gia. Bên cạnh những tác động tích cực thúc đẩy đầu tư, hợp tác kinh doanh, mở ra cơ hội nâng cao trình độ nguồn nhân lực, tiếp cận với nền khoa học công nghệ phát triển, chuyển giao tri thức, giao lưu văn hóa…, những hoạt động đó cũng phát sinh không ít hệ quả tiêu cực về chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội của nước sở tại. Vì vậy, xây dựng, hoàn thiện và thực thi chính sách, pháp luật hiện đại, phù hợp đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa. Bài viết tập trung nghiên cứu các chính sách, quy định pháp luật đối với việc nhập cư, cư trú, lao động của người lao động nước ngoài ở các quốc gia vùng Vịnh mà điển hình là Qatar và UAE. Trên cơ sở đó bài viết đưa ra những đánh giá, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật về lĩnh vực này ở Việt Nam.
Từ khóa: Vùng Vịnh, lao động nước ngoài, xuất nhập cảnh, cư trú, pháp luật.
Law on immigration, residence and employment of foreign labor in the Gulf states and some suggestions for Vietnam
Nguyen Thi Kim Cuc - Ho Chi Minh City University of Law
Mai Van Thang – Vietnam National University, Hanoi – School of Law

Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2018

Ảnh hưởng của pháp luật phương Tây đến pháp luật Nhật Bản trong lịch sử và những giá trị tham khảo đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay



ảnh Internet
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Số 34 (3) tháng 9/2018.


Là giảng viên, tôi tâm niệm rằng, nỗ lực làm cho mình hoàn thiện hơn từng ngày là vô cùng quan trọng, nhưng có lẽ quan trong hơn tất cả là phải làm cho người học ngày càng giỏi hơn, gia tăng được nhiều hơn giá trị trong lĩnh vực chuyên môn, bởi suy cho cùng, người thầy dù có nỗ lực làm cho mình hoàn thiện hơn mỗi ngày cũng là hướng đến thành quả là người học.
Bài viết này là nỗ lực của một sinh viên năm thứ nhất dưới sự hướng dẫn của tôi. Bài viết chắc chắn chưa hoàn thiện, tuy nhiên, với một sinh viên năm thứ nhất đại học mà đã làm được như thế này là điều vô cùng trân quý. Ở cùng thời điểm năm nhất đại học như bạn ấy, tôi đã không làm được như thế. Mong rằng, đây là bước khởi đầu cho sự hoàn thiện và phát triển của sinh viên trong quá trình học tập, nghiên cứu tại Khoa Luật của chúng tôi. Xin được giới thiệu bài viết này và đây chỉ là báo cáo tóm lược công trình nghiên cứu gần 100 trang của các tác giả.

Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích những lĩnh vực của hệ thống pháp luật Nhật Bản đã chịu tác động, ảnh hưởng của pháp luật các quốc gia phương Tây, làm rõ những yếu tố tiếp nhận pháp luật nước ngoài, những nguyên do góp nên thành công của hệ thống pháp luật Nhật Bản khi tiếp nhận pháp luật từ các hệ phái pháp luật tiến bộ khác nhau của phương Tây cũng như sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố truyền thống của Nhật Bản với những giá trị tiến bộ ngoại lai qua đó chỉ ra những kinh nghiệm quý có thể tham khảo cho Việt Nam trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay.
Từ khóa: Ảnh hưởng của pháp luật, pháp luật phương Tây, pháp luật Nhật Bản, lịch sử pháp luật; pháp luật Việt Nam.

Thứ Hai, 5 tháng 3, 2018

Đặc trưng của mô hình, phương thức tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ ở Liên bang Nga hiện nay


ảnh: Internet
TS. Mai Văn Thắng 
Khoa Luật, ĐHQGHN
Nguồn bài đăng:
 Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
Số 1, tháng 3/2018 
Chân thành cám ơn Tạp chí NCLP đã chấp nhận đăng bài viết! Xin đăng lên đây để cho ai quan tâm đọc và góp ý!!!
Tóm tắt: Tổ chức đơn vị hành chính lãnh thổ và tổ chức chính quyền địa phương là những vấn đề vô cùng hệ trọng của mỗi quốc gia. Tuy có liên quan mật thiết đến nhau nhưng chúng lại khác nhau về bản chất, vai trò và vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng, rành mạch để vừa thiết lập được mô hình phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ phù hợp, thúc đẩy phát triển đất nước và hỗ trợ quản trị quốc gia thống nhất nhưng cũng không làm triệt tiêu hoặc hạn chế quyền tự chủ, tự quyết, tự chịu trách nhiệm, thui chột sự năng động, sáng tạo của chính quyền và nhân dân địa phương, góp phần thúc đẩy nền tảng dân chủ, pháp quyền và quản trị tốt. Bài viết phân tích những đặc điểm của mô hình, phương thức tổ chức hành chính lãnh thổ ở nước Nga hiện đại và chỉ ra những điểm mà theo tác giả là có giá trị tham khảo đối với Việt Nam hiện nay dù bối cảnh chính trị, xã hội có nhiều điểm khác nhau.
Từ khóa: mô hình, đơn vị hành chính lãnh thổ, Nga, đặc điểm, tự quản địa phương.

Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2018

ĐÀO TẠO LUẬT Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ

ảnh: Internet

Mai Văn Thắng
Khoa Luật, ĐHQGHN

Những ngày nghỉ Tết Nguyên đán về đoàn viên với gia đình, quê hương, vì có thời gian rảnh, không biết làm gì nên tôi có chút mơ màng và suy tư về đào tạo luật ở Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0. Bài viết này chỉ là cảm nhận, phân tích của cá nhân với nhiều hạn chế về nhận thức, nên mong nhận được góp ý chân thành của các đồng nghiệp và những ai quan tâm!
Trân trọng cám ơn!
1.     Dẫn nhập
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang hiện hữu trong mọi khía cạnh của cuộc sống xã hội. Nhận thức đúng bản chất, nội dung của cuộc cách mạng này và nắm vững được những cơ hội, thách thức mà nó đem lại giúp cho mỗi quốc gia điều chỉnh, xây dựng được chiến lược phù hợp tận dụng thời cơ để phát triển đất nước và không bị bỏ lại phía sau.
    CMCN 4.0 lần đầu tiên được đề cập đến từ năm 2011[1] tại Đức và, thực tế, đã được tận dụng khá thành công ở nhiều quốc gia, tập đoàn, doanh nghiệp góp phần tạo thịnh vượng, thiết lập các xu hướng, dẫn dắt sự phát triển của thế giới.
    Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm, đẩy mạnh truyền thông về cuộc cách mạng này và đã có những quyết sách bước đầu quan trọng.[2] Trong lĩnh vực học thuật, đã có một số hoạt động, nghiên cứu có chất lượng bàn về CMCN 4.0 nhằm chỉ ra những thách thức, cơ hội mà Việt Nam đã và sẽ đối diện.[3] Tuy nhiên, thực tế cho thấy không chỉ nhận thức về CMCN 4.0 chưa thật đầy đủ, toàn diện, mà cho đến nay dường như chưa có sự chuyển dịch lớn nào trên phương diện chính sách pháp luật hướng tới kỷ nguyên 4.0 ở nước ta.

Chủ Nhật, 3 tháng 12, 2017

Ngôn ngữ không thể và không nên là sản phẩm của sự tiết kiệm, rẻ tiền

Cha đẻ của Bom nguyên tử (ảnh: Internet)
Mai Văn Thắng
Khoa Luật, ĐHQGHN
[Tản mạn chiều Đông 2017]
Tôi viết mấy dòng này vì có một sự đồng cảm sâu sắc với lập luận và suy nghĩ của tác giả Crescy D. Nguyen với bài viết “Tiếng Anh, Tây Ban Nha còn khác người hơn Tiếq Việt” đăng trên Vnexpress.net (nguồn: https://vnexpress.net/tin-tuc/cong-dong/tieng-anh-tay-ban-nha-con-khac-nguoi-hon-tieq-viet-3678598.html). Tôi cũng không có ý định phê phán PGS.TS. Bùi Hiền vì, dù gì đi chăng nữa, đó cũng là công trình khoa học đầy tâm huyết của ông. Nhưng, tôi chỉ xin có vài lời vì cảm thấy cần góp một “hạt cát nhỏ” để cùng xây lên “thành lũy” bảo vệ, giữ gìn sự giàu có, phong phú, bảo vệ chất thơ, chất nhạc… của tiếng Việt chúng ta.