ảnh: Internet |
Thái Doãn Thành; Mai Văn Thắng
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học:
"Đánh giá 05 năm thi hành Hiến pháp
nước CHXHCN Việt Nam 2013"
Khoa Luật, ĐHQGHN, 9/2018
1.
Dẫn nhập
Một trong những nội dung mới và có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với đời sống chính trị, nhà nước và pháp luật Việt Nam
là những quy định trong Điều 117 Hiến pháp 2013 về Hội đồng Bầu cử quốc gia
(HĐBCQG). Sự ra đời thiết chế hiến định này không chỉ thể hiện sự đổi mới mạnh
mẽ trong tư duy lý luận về tổ chức, vận hành quyền lực nhà nước mà còn khẳng
định nỗ lực và quyết tâm của Việt Nam hướng tới các chuẩn mực chung, phổ quát
trong việc bảo đảm thực hiện các quyền dân chủ của người dân, khẳng định nền
tảng dân chủ, chủ quyền nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước.
Kể từ khi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, ngày 6
tháng 01 năm 1946 để bầu ra Quốc hội của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được
tiến hành, nay là nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, nước ta đã trải qua 14 cuộc bầu
cử đại biểu Quốc hội. Bầu cử là một trong những chế định quan trọng nhất của
nền dân chủ, là cơ chế hợp pháp để người dân chuyển giao quyền lực thông qua
con đường hòa bình, dân chủ, hợp pháp và văn minh. Đối với Việt Nam, Quốc hội
là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và HĐND các cấp là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương. Bởi vậy sự thành công hay thất bại của cả bộ máy nhà nước,
của hệ thống chính quyền phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, thành quả các cuộc
bầu cử. Một trong các yếu tố góp nên thành công của các cuộc bầu cử là cơ quan
phụ trách công tác bầu cử. Tuy nhiên, phải đến Hiến pháp năm 2013 Hội đồng bầu
cử quốc gia với tư cách là cơ quan phụ trách bầu cử toàn quốc mới có được vị
trí xứng đáng như vốn có của nó - thiết chế hiến định độc lập.
Dù vậy, do đây thiết chế mới được hiến định
trong Hiến pháp nên với tính chất là các nguyên tắc, quy phạm pháp lý nền tảng,
cơ bản, Hiến pháp đã không quy định cụ thể về cách thức thành lập cũng như tổ
chức và hoạt động của HĐBCQG mà trao quyền cho Quốc hội ban hành các văn bản
luật để quy định cụ thể, chi tiết.
Tuy nhiên, sau khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực,
Quốc hội khóa XIII đã không kịp ban hành một đạo luật cụ thể hóa mà thiết chế
này được quy định ở rất nhiều những văn bản khác nhau. Việc tổ chức bầu cử Quốc
hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 trên quy mô toàn quốc cũng đã
được Hội đồng bầu cử quốc gia tiến hành. Nhưng, trong thực tế cũng đã có nhìn
nhận khác nhau về thành phần, cơ cấu và cách thức mà Hội đồng bầu cử quốc gia
tiến hành trong đợt bầu cử khóa, nhiệm kỳ này.
Mặc dù vậy, không thể phủ
nhận HĐBCQG đã tổ chức một cuộc bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp khá thành công,
bảo đảm các quyền dân chủ của người dân, giữ vững được sự ổn định chính trị,
thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Hiến pháp đã ban hành và có hiệu lực được 5
năm và đây là cơ hội tốt để nhìn nhận, đánh giá việc thực thi các quy định hiến
định liên quan đến thiết chế này để bảo đảm những quy định của Hiến pháp được
thực sự tôn trọng, thực thi trên thực tế, khẳng định tính tối thượng của Hiến
pháp và quan trọng hơn là góp phần hướng tới xây dựng thành công nhà nước pháp
quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân và sự phát triển bền vững
của một xã hội dân chủ, tiến bộ, nhân quyền và pháp quyền.
2. Thực tiễn triển khai quy định của Hiến pháp 2013 về
Hội đồng bầu cử quốc gia
2.1. Đánh giá nội dung các quy định cụ thể
hóa việc tổ chức và hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia theo tinh thần Hiến
pháp 2013.
Điều 117 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ
tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu
HĐND các cấp.
2. Hội đồng bầu cử quốc gia gồm Chủ tịch, các Phó Chủ
tịch và các Ủy viên.
3. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia do
luật định.
Quy định trên là cơ
sở pháp lý quan trọng để Quốc hội xây dựng các văn bản luật quy định cụ thể,
chi tiết về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG. Ngày 25/6/2015, Luật bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND được ban hành. Đạo luật này đã dành riêng Mục 1
Chương III (từ Điều 12 đến Điều 20) quy định về HĐBCQG. Theo đó, Mục 1 Chương
III Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015 đã thể hiện tương
đối đầy đủ và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về tổ chức và hoạt động của chế
định HĐBCQG ở Việt Nam hiện nay.
Về nội dung các quy
định trong Luật nói trên, các tác giả nhận thấy:
- Pháp luật quy định HĐBCQG do Quốc hội thành lập là phù hợp với cơ chế
hình thành các cơ quan hiến định trong bộ máy nhà nước và mô hình tổ chức quyền
lực của Việt Nam. Bên cạnh đó, quy định như vậy vừa có ý nghĩa thừa nhận HĐBCQG
là cơ quan nhà nước ở trung ương, vừa thể hiện vị trí độc lập trong mối quan hệ
với Chính phủ, TAND tối cao, Viện KSND tối cao, ... các thiết chế do Quốc hội lập nên. Tuy nhiên, ở
một chừng mực nào đó các quy định trong Điều 12 của Luật bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu HĐND còn chưa thể hiện rõ sự độc lập của HĐBCQG so với chính
Quốc hội. HĐBCQG là cơ quan tổ chức bầu cử Quốc hội nên dù được Quốc hội bầu ra
nhưng cần phải có vị trí độc lập với Quốc hội mới đảm bảo vai trò, vị trí “hiến
định” và độc lập cần thiết của thiết chế này. Quốc hội khóa trước hoàn toàn có
quyền năng thành lập HĐBCQG để tổ chức bầu cử Quốc hội khóa sau và chỉ đạo bầu
cử HĐND các cấp.
- Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Luật quy
định cơ cấu thành viên của HĐBCQG từ mười lăm đến hai mươi mốt người bao gồm:
Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên là đại diện của UBTVQH, Chính phủ, Ủy ban
trung ương MTTQ Việt Nam và một số cơ quan, tổ chức hữu quan khác.[1] Đây là sự kế thừa về cơ
cấu thành viên HĐBC ở trung ương như giai đoạn trước Hiến pháp năm 2013, nhằm
bảo đảm sự đa dạng về thành phần thành viên HĐBCQG. Sự đại diện đa dạng các
thành viên trong Hội đồng bầu cử từ các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã
hội có ưu điểm tránh sự phụ thuộc của HĐBCQG vào một cơ quan nhà nước nào đó,
thể hiện được tính độc lập. Tuy nhiên, HĐBCQG thiếu vắng các chuyên gia, đại
diện trung lập từ các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp là hạn chế vẫn chưa
được khắc phục. Sự thiếu vắng này có thể làm giảm đi tính độc lập của Hội đồng
bầu cử so với các cơ quan chính trị và nhà nước. Bên cạnh đó, các thành viên
Hội đồng bầu cử chủ yếu là các lãnh đạo các cơ quan UBTV Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban trung ương MTTQ Việt Nam và các
tổ chức chính trị-xã hội. Chủ tịch Quốc hội thường là Chủ tịch Hội đồng bầu cử
(danh sách thành viên HĐBCQG ngày 10/2/2016). Việc kiêm nhiệm như vậy ở góc độ
nào đó có thể gây ra những quan ngại đến tính độc lập của cơ quan này. Không
những thế, các lãnh đạo trong các cơ quan chủ chốt của nhà nước đa phần là đại
biểu Quốc hội, điều này có thể dẫn đến tình trạng “chính mình lại tổ chức bầu ra mình”, điều đó không tránh khỏi sự
nghi ngại của dư luận.
- Cách thức tuyển chọn, bổ nhiệm thành viên
của HĐBCQG do Quốc hội và UBTVQH thực hiện. Cách thức thực hiện tương đương như
đối với Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Kiểm toán nhà nước. Với tư
cách là cơ quan thường trực của Quốc hội, UBTVQH giữ quyền đề nghị Quốc hội bầu
Chủ tịch HĐBCQG mà không trao quyền này cho Nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch
nước nhằm bảo đảm thống nhất về mô hình tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam.
Tuy nhiên, cách thức lựa chọn thành viên do Quốc hội và UBTVQH thực hiện vẫn
chưa thể hiện rõ vị trí, tầm vóc của HĐBCQG trong mối quan hệ với thiết chế do
cơ quan này tổ chức bầu ra. Quy định này ở văn bản luật đồng nghĩa với việc coi
HĐBCQG chỉ tương đương với một thiết chế thuộc Quốc hội chứ chưa phải thiết chế
hiến định độc lập. Ở chừng mực nào đó, thiết nghĩ, đạo luật chưa thể hiện rõ vị
trí của thiết chế hiến định này và chưa thể hiện đầy đủ tinh thần của Hiến pháp
2013 về HĐBCQG.
- Về cách thức bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng bầu
cử Quốc gia.
Theo quy định tại Khoản 7 Điều 70 Hiến pháp
năm 2013, Quốc hội có thẩm quyền “bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm” Chủ tịch HĐBCQG. Điều này cũng được khẳng định trong
Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 tại Khoản 6 Điều 8: “Quốc hội bầu Chủ tịch HĐBCQG” và Điều 11: “Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm [...] người giữ chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật này theo đề nghị của cơ
quan hoặc người có thẩm quyền giới thiệu Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn chức vụ
đó”. Tuy nhiên, tại Khoản 2 Điều 12 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu HĐND năm 2015 chỉ quy định: “Chủ
tịch Hội đồng bầu cử Quốc gia do Quốc hội bầu, miễn nhiệm theo đề nghị của UBTV
Quốc hội”. Quy định này có sự thiếu thống nhất với quy định của Hiến pháp
năm 2013 và Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 bởi không ghi nhận thẩm quyền của
Quốc hội trong việc bãi nhiệm Chủ
tịch HĐBCQG.
- Về cách thức bổ nhiệm Phó Chủ tịch và các
Ủy viên của HĐBCQG
Theo quy định tại Khoản
2 Điều 12 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015: “Các Phó Chủ tịch và các Ủy viên Hội đồng
bầu cử quốc gia do Quốc hội phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng bầu cử
quốc gia”. Tuy nhiên quy định trên còn thiếu sót khi không ghi nhận thẩm
quyền ra quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với Phó Chủ tịch và các
Ủy viên của HĐBCQG thuộc về ai. Giống với các chức danh khác trong các cơ quan
hiến định như Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Phó Chánh án TAND tối cao,
Phó Viện trưởng Viện KSND tối cao... do Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của
Quốc hội để bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (Điều 88 Hiến pháp năm 2013).
Bên cạnh đó, Điều 117 Hiến pháp năm 2013 và
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015 chưa quy định cụ thể về
điều kiện, tiêu chuẩn thành viên HĐBCQG nhằm bảo đảm cho yêu cầu về tổ chức bầu
cử minh bạch và công khai.
Ngoài những vấn đề trên, theo quan điểm của
các tác giả, chế định HĐBCQG là chế định hiến định độc lập làm việc dựa trên nguyên
tắc tập thế, quyết định theo đa số, [2] tuy nhiên, việc giao quyền
cho Chủ tịch HĐBCQG đề xuất các thành viên khác sẽ làm ảnh hưởng tới quyết định
độc lập của từng thành viên khi thực hiện nguyên tắc làm việc tập thể và quyết
định theo đa số. Khi có sự tác động về mặt nhân sự, sự bình đẳng của các thành
viên trong công việc cũng ít nhiều bị ảnh hưởng. Thiết nghĩ, quy định này của
Luật chưa phản ánh đầy đủ ý nghĩa của thiết chế hiến định độc lập và đặc thù
như HĐBCQG. Chế độ báo cáo được ghi nhận trong Điều 13 của bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu HĐND 2015 cũng làm ảnh hưởng đến vị thế, vai trò của HĐBCQG
theo tinh thần Hiến pháp 2013.
Nguyên tắc hoạt động của HĐBCQG được quy định
cụ thể tại Điều 13 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015.
Theo đó “Hội đồng bầu cử quốc gia hoạt động theo chế độ tập thể, quyết định
theo đa số. Các cuộc họp được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số
thành viên của Hội đồng bầu cử quốc gia tham dự; các quyết định được thông qua
khi có quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành”.
Đây thực chất là sự kế thừa từ các quy định
của pháp luật ở giai đoạn trước đối với cơ quan phụ trách bầu cử ở nước ta. Cụ
thể tại Điều 19 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997: “Các tổ chức phụ
trách bầu cử làm việc theo chế độ tập thể; các cuộc họp được tiến hành khi có
ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham dự; các quyết định được thông qua
khi có quá nửa số thành viên biểu quyết tán
thành”. Sau đó tiếp tục được khẳng định tại Điều 13 Luật Bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu HĐND năm 2015, cũng như tại Khoản 1 Điều 2 trong Quy chế làm
việc của HĐBCQG ban hành kèm theo Nghị quyết số 19/2015/HĐBCQG ngày 17/12/2015
của HĐBCQG: “Hội đồng bầu cử quốc gia làm việc theo chế độ tập thể, quyết định
theo đa số, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Việc pháp luật quy
định nguyên tắc hoạt động của HĐBCQG như vậy là phù hợp với nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước trên cơ sở Hiến pháp năm
2013 quy định tại Điều 8: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ”.
- Bộ máy giúp việc của HĐBCQG được ghi nhận
tại Điều 19 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015. Theo đó:
1. Hội
đồng bầu cử quốc gia có bộ máy giúp việc do UBTV Quốc hội quy định.
2. Hội đồng bầu cử quốc gia có quyền trưng
tập cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị-xã hội để giúp việc cho Hội đồng bầu cử quốc gia.
3. Kinh phí hoạt động của Hội đồng bầu cử
quốc gia do ngân sách nhà nước bảo đảm.
Trên cơ sở đó, tại
Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 1074/2015/UBTVQH 13 ngày 11/12/2015 quy định về bộ
máy giúp việc của HĐBCQG: “Văn phòng Hội
đồng bầu cử quốc gia là bộ máy giúp việc của Hội đồng bầu cử quốc gia”. Tuy
nhiên, việc pháp luật quy định “bộ máy
giúp việc của HĐBCQG là do UBTVQH quy định” thông qua Nghị quyết của UBTVQH
là không bảo đảm tính hợp hiến và tính hợp pháp (Điều 15, 16 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015), bởi một một văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh về tổ chức và hoạt động của cơ quan độc lập ở tầm hiến định như HĐBCQG là
thuộc thẩm quyền của Quốc hội ban hành (Luật hoặc ít nhất là Nghị quyết của
Quốc hội; có chăng được sự ủy quyền của Quốc hội thì là Pháp lệnh của UBTVQH).
Còn việc thành lập các Tiểu ban do HĐBCQG thực hiện đã làm tăng tính độc lập,
tự chủ, không phụ thuộc của HĐBCQG trong hoạt động lãnh đạo và quản lý bầu cử,
đồng thời góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp của HĐBCQG trong công tác bầu
cử. Tuy nhiên để bảo đảm cho hoạt động của HĐBCQG được thực hiện tốt hơn, pháp
luật cần quy định cụ thể về nhiệm vụ quyền hạn của từng Tiểu ban đối với lĩnh
vực của mình.
- Chế độ làm việc của HĐBCQG, tại Điều 3 Quy
chế làm việc của HĐBCQG năm 2015, Hội đồng có 3 hình thức phiên họp gồm:
1. Phiên họp toàn thể (phiên họp thường niên) được tổ chức công khai định
kỳ mỗi tháng một lần. Phiên họp toàn thể của HĐBCQG được tiến hành khi có ít
nhất hai phần ba tổng số thành viên tham dự. Các thành viên không tham dự được
phải báo cáo Chủ tịch HĐBCQG.
2. Phiên họp bất thường được tổ chức theo
yêu cầu của ít nhất một phần ba tổng số thành viên hoặc theo đề nghị của Chủ
tịch HĐBCQG
3. Phiên họp nội bộ do Chủ tịch HĐBCQG gia quyết định.
Việc pháp luật quy định về phiên họp của
HĐBCQG như vậy là hợp lý, thể hiện tính linh hoạt của HĐBCQG trong giải quyết
các công việc, bảo đảm cho các thành viên của Hội đồng được cung cấp các thông
tin, trao đổi ý kiến về tổ chức, quản lý bầu cử một cách thường xuyên, kịp
thời, đồng thời giúp Hội đồng có thể lắng nghe ý kiến từ đại diện các cơ quan,
tổ chức hữu quan.
- Về chế
độ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác hoạt động, tại Điều 13 Luật bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015 quy định, sau đó tiếp tục được khẳng
định tại Điều 6 Quy chế làm việc của HĐBCQG năm 2015: “Hội đồng bầu cử quốc gia chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo về
hoạt động của mình trước Quốc hội, UBTV Quốc hội”.
Mối quan hệ này xuất phát từ cách thức thành
lập của HĐBCQG đó là do Quốc hội thành lập, Chủ tịch HĐBCQG do UBTVQH giới
thiệu để Quốc hội bầu, Chủ tịch HĐBCQG đề nghị Quốc hội phê chuẩn Phó Chủ tịch
và các thành viên khác của HĐBCQG. Chế độ báo cáo của HĐBCQG được quy định lần
lượt tại Điều 17, Điều 88 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND
năm 2015, sau đó tiếp tục được khẳng định tại Điều 6 trong Quy chế làm việc của
HĐBCQG ban hành ngày 19/12/2015, theo đó: HĐBCQG chịu trách nhiệm trước Quốc
hội và báo cáo công tác hoạt động của mình trước Quốc hội và UBTVQH; Định kỳ
hàng tháng hoặc trong trường hợp cần thiết, HĐBCQG báo cáo với UBTVQH về tình
hình, kết quả tổ chức bầu cử; Tại kỳ họp cuối cùng của Quốc hội đương nhiệm,
HĐBCQG báo cáo Quốc hội về kết quả hoạt động từ khi thành lập và công tác chuẩn
bị bầu cử trong cả nước; Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa mới, HĐBCQG trình
Quốc hội báo cáo tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước và báo cáo xác nhận tư cách
đại biểu Quốc hội.
Với chế độ báo cáo như vậy tuy đã bảo đảm
được sự giám sát thường xuyên, liên tục của Quốc hội và UBTVQH đối với hoạt
động của HĐBCQG cũng như thể hiện được tính liên tục trong hoạt động của
HĐBCQG. Đây là điểm khác biệt lớn so với hoạt động của cơ quan phụ trách bầu cử
ở nước ta trong những giai đoạn trước, cụ thể, ở các giai đoạn trước, pháp luật
mới chỉ quy định việc Hội đồng bầu cử trình Quốc hội khóa mới biên bản tổng kết
cuộc bầu cử và hồ sơ, tài liệu về bầu cử (Điều 19 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1992; Điều 21
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997) mà không quy định chi tiết, cụ thể về thời gian báo cáo, vấn đề cần báo
cáo... Ngoài ra, ở giai đoạn này, cả Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
HĐND năm 2015 và Quy chế làm việc của HĐBCQG năm 2015 đều không quy định cụ thể
về nội dung từng loại báo cáo nhằm làm rõ hai vấn đề: Thứ nhất, trách nhiệm của HĐBCQG; Thứ hai, “cung cấp thông tin, phản ánh ý kiến của cử
tri, nhân dân về những vấn đề liên quan đến công tác hoàn thiện chế định bầu
cử, pháp luật về bầu cử nhằm bảo đảm và phát huy vai trò của nhân dân tham gia
xây dựng chính quyền”[3].
-
Về
nhiệm vụ, quyền hạn.
Nhiệm vụ của HĐBCQG được quy định tại Khoản 1
Điều 117 Hiến pháp năm 2013, theo đó: “1.
Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức
bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND
các cấp”.
Trên cơ sở đó, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu HĐND các cấp năm 2015 đã cụ thể hóa tại Điều 14, 15, 16. Trong đó,
Luật quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn chung của HĐBCQG (Điều 14); nhiệm
vụ, quyền hạn của HĐBCQG trong việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (Điều 15)
và nhiệm vụ, quyền hạn của HĐBCQG trong việc chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử
đại biểu HĐND các cấp (Điều 16)
Nhìn chung, về nhiệm vụ
quyền hạn của HĐBCQG được pháp luật quy định khá cụ thể để thực hiện một số
công việc quan trọng, cốt yếu của cuộc bầu cử như tổ chức bầu cử đại biểu Quốc
hội; Lập danh sách người ứng cử; Chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, vận
động bầu cử; chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong bầu
cử; Xác nhận tư cách đại biểu... Nhưng có thể thấy, ngoài một quy định mới về
nhiệm vụ của HĐBCQG là “quản lý và phân
bổ kinh phí tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội” thì những nội dung còn lại là
mang tính kế thừa từ nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử ở trung ương trong
những giai đoạn trước đây. Tuy nhiên, với tư cách là một cơ quan thực hiện
quyền lực nhà nước trong tổ chức, chỉ đạo bầu cử, những nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐBCQG được pháp luật quy định vẫn còn một số hạn chế nhất định dẫn đến tính
độc lập và vị trí là cơ quan cao nhất có thẩm quyền tổ chức và chỉ đạo bầu cử
của cơ quan này bị hạn chế. Ví dụ: Quốc hội quyết định ngày bầu cử, việc bầu cử
bổ sung; UBTVQH thực hiện việc dự kiến và phân bổ số lượng đại biểu Quốc hội;
Chính phủ chỉ đạo tổ chức thực hiện các biện pháp bảo đảm kinh phí, hướng dẫn
việc quản lý và sử dụng kinh phí tổ chức bầu cử... Việc phân bổ nhiệm vụ cho
nhiều cơ quan thực hiện trong việc tổ chức, quyết định một số vấn đề quan trọng
của cuộc bầu cử đã phần nào làm giảm đi vị trí vai trò của HĐBCQG trong bộ máy
nhà nước là một cơ quan ở tầm hiến định, cũng như làm giảm đi tính độc lập, vai
trò quyết định, chỉ đạo công tác bầu cử của HĐBCQG.
-
Về kinh
phí hoạt động:
Kinh phí hoạt động của HĐBCQG được quy định
tại Khoản 3 Điều 19 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm
2015:“Kinh phí hoạt động của Hội đồng bầu
cử quốc gia do ngân sách nhà nước bảo đảm”.
Quy định này là phù hợp
với vị trí là cơ quan hiến định, độc lập trong mối tương quan với các cơ quan
khác như Chính phủ, Tòa án, ... của HĐBCQG. Tuy nhiên, HĐBCQG vẫn chưa thực sự độc lập, tự quyết đối với
ngân sách nhà nước khi quy định Chính phủ tổ chức thực hiện các biện pháp bảo
đảm kinh phí, hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí tổ chức bầu cử (Khoản 4 Điều 4 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu HĐND các cấp năm 2015). Quy
định này đã phần nào hạn chế sự độc lập đối với HĐBCQG.
Vì vậy, để bảo đảm tính độc lập và thực quyền
của HĐBCQG ở nước ta, cần quy định cụ thể về nguồn kinh phí tài chính mà HĐBCQG
có thể sử dụng nhưng không phụ thuộc vào các cơ quan hành chính như hiện nay.
Nhưng căn cứ vào điều kiện đặc thù ở nước ta thì cần phải kết hợp với điều kiện
nguồn kinh phí của HĐBCQG do Quốc hội quyết định.
- Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của Hội đồng
bầu cử Quốc gia:
Thời điểm kết thúc nhiệm vụ của HĐBCQG được
quy định tại Điều 20 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm
2015: “Hội đồng bầu cử quốc gia kết thúc
nhiệm vụ sau khi đã trình Quốc hội khóa mới báo cáo tổng kết cuộc bầu cử trong
cả nước và kết quả xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội được bầu, bàn giao biên
bản tổng kết và hồ sơ, tài liệu về bầu cử đại biểu Quốc hội cho UBTV Quốc hội
khóa mới.”
Đây thực chất là sự kế thừa thời điểm kết
thúc nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử ở trung ương trong các giai đoạn trước. Với
quy định này đã bảo đảm được tính ổn định, kế thừa trong thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của HĐBCQG. Tuy nhiên lại thể hiện sự thiếu đổi mới, chuyên nghiệp,
độc lập để thực hiện công tác bầu cử, khó ứng phó khi có công việc phát sinh
như bầu cử bổ sung đại biểu giữa nhiệm kỳ... Do đó, tại Điều 90 luật này đã quy
định việc thành lập Hội đồng bầu cử bổ sung có nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng
với các quy định của Luật này về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐBCQG. Quy định này
tuy giải quyết được công việc phát sinh trước mắt nhưng có thể thấy, Hội đồng
bầu cử bổ sung hoạt động mang tính lâm thời, thiếu chuyên nghiệp khi được thành
lập trong trường hợp này, đây cũng là sự kế thừa về tính chất của Hội đồng bầu
cử ở trung ương trong các giai đoạn trước.
Như vậy, có thể thấy, nhìn một cách tổng thể
các văn bản luật (Luật Tổ chức Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu HĐND năm 2015) đã cụ thế, chi tiết các quy định của Hiến pháp 2013 để tổ
chức, bầu cử Quốc hội, HĐND khóa, nhiệm kỳ này. Tuy vậy, rất dễ nhận thấy,
nhiều quy định của các luật nói trên đã vô tình làm mất đi vị trí của một thiết
chế hiến định độc lập, đặc biệt nhiều quy định còn có xu hướng làm giảm đi vị
trí của thiết chế này so với tinh thần của Hiến pháp về vị trí, vai trò của
HĐBCQG như là một thiết chế hiến định độc lập. Bên cạnh đó, nhiều quy định
trong các đạo luật trên dường như không có nhiều thay đổi so với cơ quan phụ
trách bầu cử trước đây khi chưa là một thiết chế hiến định độc lập. Rõ ràng,
việc xây dựng các quy định thi hành Hiến pháp về HĐBCQG đang có những vấn đề
cần được nhìn nhận, đánh giá lại một cách khách quan, công bằng và chuẩn xác
hơn để trả lại đúng vị trí, tầm vóc của HĐBCQG trong Hiến pháp.
2.2.
Một vài đánh giá thực tiễn thi hành
Hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
tổ chức và hoạt động của HĐBCQG nhằm triển khai quy định của Hiến pháp năm 2013
trong thời gian qua ở nước ta được thể hiện trên một số phương diện sau:
Thứ nhất, lần đầu tiên trong
lịch sử lập hiến, tại Điều 117 Hiến pháp năm 2013 đã hiến định HĐBCQG, đây là
bước ngoặt mang tính lịch sử trong hoạt động xây dựng pháp luật về HĐBCQG
Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận tại Điều 117 về cơ quan
HĐBCQG, quy định về cách thức
thành lập, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, sau đó đến năm 2015 mới được luật hóa về
tổ chức và hoạt động trong Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các
cấp năm 2015. Tuy nhiên, hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức
và hoạt động của HĐBCQG đã bộc lộ rõ hạn chế khi quy định tổ chức và hoạt động
của HĐBCQG trong Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm
2015, bởi về nguyên tắc, Luật
bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND được coi là luật hình thức vì quy
định về quy trình, thủ tục bầu cử vào cơ quan dân cử; trong khi đó, những quy
định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐBCQG sẽ thuộc về luật nội dung. Việc
gộp cả hai nhóm quy định vào trong một văn bản luật sẽ không bảo đảm tính hợp
lý, rõ ràng, minh bạch của văn bản luật, thiếu sự đồng bộ trong hệ thống pháp
luật Việt Nam.
Thứ ba, mặc dù pháp luật đã quy định về bộ máy giúp
việc của HĐBCQG, tuy nhiên, việc Quốc hội giao cho UBTVQH ban hành Nghị quyết
số 1074/2015/UBTVQH13 ngày 11/12/2015 quy định về bộ máy giúp việc
của HĐBCQG cũng là chưa hợp lý, hợp pháp, bởi
một một văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của cơ
quan độc lập ở tầm hiến định như HĐBCQG là thuộc thẩm quyền của Quốc hội ban
hành (Luật hoặc ít nhất là Nghị quyết của Quốc hội; có chăng được sự ủy quyền
của Quốc hội thì là Pháp lệnh của UBTVQH).
Thứ tư, đội ngũ cán bộ tham gia xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG chưa có kinh nghiệm trong
đánh giá thực trạng các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và
hoạt động của HĐBCQG, hạn chế trong chuyên môn do thực tiễn tổ chức và hoạt
động của cơ quan này trên thực tế là mới thành lập. Ở những giai đoạn trước đó,
tổ chức phụ trách bầu cử ở nước ta hoạt động mang tính lâm thời nên những cán
bộ trực tiếp tham gia vào tổ chức đó cũng chưa thể tích lũy đủ kinh nghiệm
trong hoạt động xây dựng pháp luật. Ngoài ra, hiện nay, các thành viên của
HĐBCQG cũng hoạt động mang tính kiêm nhiệm, vì vậy khó có thể tập trung vào
công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ trong công tác bầu cử được, dẫn đến
hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG
chưa được sát với thực tiễn, dẫn đến còn nhiều bất cập trong những quy định của
pháp luật hiện hành.
Thứ năm, hiện nay, các quy định pháp luật về tổ chức
và hoạt động của HĐBCQG còn nằm rải rác ở nhiều văn bản với nhiều loại khác
nhau, chưa có sự thống nhất đồng bộ. Trên thực tế khi tổ chức và hoạt động của
HĐBCQG gặp khó khăn thì ngay sau đó sẽ có một văn bản pháp luật được ban hành
ra nhằm điều chỉnh. Điều đó dẫn đến tổ chức và hoạt động của HĐBCQG trên thực
tế còn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến tính khách quan, minh bạch và dân chủ
trong tổ chức bầu cử.
Thứ sáu, về quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG cũng chưa cụ thể, tức chưa có kế hoạch trong
xây dựng, trong hoàn thiện pháp luật mà hoạt động này còn mang tính tự phát.
3. Phương hướng và một số đề xuất
3.1. Phương hướng, quan điểm
Hiện nay, tổ chức
và hoạt động của HĐBCQG được quy định tại Điều 117 Hiến pháp năm 2013 và Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm 2015. Tuy nhiên, để bảo
đảm HĐBCQG là cơ quan ở tầm Hiến định cũng như bảo đảm tính độc lập, có vai trò
quan trọng trong việc thực hiện quyền làm chủ của người dân, cần nghiên cứu xác
định văn bản pháp lý nào quy định cụ thể, chi tiết về tổ chức và hoạt động của
cơ quan này - Xây dựng Luật tổ chức Hội đồng bầu cử quốc gia hay sửa đổi Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm 2015?
Điều 117 Hiến pháp
năm 2013 chỉ quy định khái quát về HĐBCQG ở các khía cạnh: cơ quan thành lập,
nhiệm vụ, cơ cấu thành viên của HĐBCQG, còn các nội dung khác được trao cho
Luật định. Quy định này mặc dù mang tính khái quát, chưa thể hiện vị trí tương
xứng với các cơ quan hiến định khác như Chính phủ, TAND, Viện KSND... nhưng đây
được xem là một quy định “mở” nhằm bảo đảm tính ổn định của Hiến pháp cũng như
khả năng linh hoạt trong điều chỉnh các quy định của Luật, linh hoạt khi cần
sửa đổi bổ sung đối với các nội dung liên quan đến tổ chức và hoạt động của
HĐBCQG phù hợp với thực tiễn.
Hiện nay, tổ chức
và hoạt động của HĐBCQG được quy định tập trung nhất tại Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm 2015. Tuy nhiên, việc đưa những quy định
cụ thể, chi tiết về tổ chức và hoạt động của HĐBCQG vào Luật bầu cử đại biểu
Quốc hội và đại biểu HĐND tỏ ra không hợp lý, bởi về nguyên tắc, Luật bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND được coi là luật hình thức vì quy định về
quy trình, thủ tục bầu cử vào cơ quan dân cử; trong khi đó, những quy định về
tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐBCQG sẽ thuộc về luật nội dung. Việc gộp cả
hai nhóm quy định vào trong một văn bản luật sẽ không bảo đảm tính hợp lý, rõ
ràng, minh bạch của văn bản luật. Vì vậy, về lâu dài, để bảo đảm tính hợp lý,
rõ ràng, minh bạch của văn bản luật, bảo đảm phù hợp với tính chất của HĐBCQG
là cơ quan hiến định, Quốc hội cần ban hành văn bản luật riêng quy định về tổ
chức và hoạt động của HĐBCQG. Sau khi có Luật Tổ chức HĐBCQG sẽ tiến đến sửa
đổi, bổ sung Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp năm 2015 để
bảo đảm tính thống nhất về mặt nội dung của Luật cũng như hệ thống pháp luật
nước ta.
Có ý kiến cho rằng,
đây là thiết chế mới, chưa có tiền lệ trong thực tiễn trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước ta, với một cơ quan mới thành lập, chưa có kinh nghiệm
nên trước mắt chỉ cần Quốc hội ủy quyền cho UBTVQH ban hành Pháp lệnh quy định
về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của HĐBCQG như Pháp lệnh tổ chức điều
tra hình sự năm 2004 mà sau này mới nâng lên thành Luật tổ chức cơ quan điều tra
hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo tác giả phương án này sẽ bộc lộ hạn chế đó là
giảm tính độc lập, vị trí là cơ quan Hiến định, vai trò bảo đảm thực hiện quyền
làm chủ của người dân cũng như tăng tính phụ thuộc của HĐBCQG đối với UBTVQH.
Bởi lẽ HĐBCQG là cơ quan do Quốc hội thành lập nhưng Quốc hội lại ủy quyền của
mình cho UBTVQH ban hành một văn bản quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và
hoạt động của HĐBCQG.
Vì vậy, để bảo đảm vị trí, vai trò cũng như sự thống
nhất trong hệ thống pháp luật, theo tác giả cần thiết phải có một Luật riêng
với tên gọi “Luật tổ chức Hội đồng bầu cử quốc gia” quy định về tổ chức và hoạt
động, về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể, về những điều kiện bảo đảm
cho HĐBCQG hoạt động có hiệu quả và chất lượng như các Luật tổ chức Quốc hội,
Luật tổ chức Viện KSND, Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức Chính phủ, Luật Kiểm
toán nhà nước, Luật chính quyền địa phương, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình
sự, và tới đây có lẽ cả Luật Chủ tịch nước.
Ngoài ra, theo quan
điểm của chúng tôi, khi xây dựng các quy định cụ thể hóa Hiến pháp, Quốc hội
cần xem xét đến vị trí hiến định độc lập và ý nghĩa của chế định này. Rõ ràng
không thể có tư duy “bình mới rượu cũ”
trong thi hành các quy định của thiết chế hiến định quan trọng này. Có thể chưa
có luật cụ thể hóa nhưng không thể có luật làm cho vị trí của nó “tệ” hơn so với tinh thần của Hiến pháp
mới với nhiều quy định, tư tưởng hết sức tiến bộ.
3.2. Đề xuất cụ thể xây dựng “Luật Tổ chức
Hội đồng bầu cử Quốc gia”
Thứ nhất, quy định vị trí, chức năng của HĐBCQG trong bộ máy nhà
nước
Để bảo đảm HĐBCQG
là một cơ quan ở tầm hiến định, độc lập với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước thì yếu tố quan trọng nhất đối với
cơ quan này đó là quy định cụ thể về vị trí và chức năng. Bầu cử là một hoạt
động chính trị - pháp lý, liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân nên rất cần được tổ chức một cách dân chủ, minh bạch, công bằng
bởi một cơ quan có đủ vị thế và quyền hạn cụ thể trong bộ máy nhà nước. Do đó,
HĐBCQG muốn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý, tổ chức các cuộc bầu cử
của mình thì cần phải có vị trí độc lập với các cơ quan khác trong bộ máy nhà
nước cũng như phân định rõ chức năng của mình, không chịu sự ràng buộc, chi
phối bởi bất kỳ cơ quan nào khác. Quốc hội có thể bầu ra, tuy nhiên, HĐBCQG cần
có vị trí độc lập với Quốc hội bởi chính nó sẽ bầu ra Quốc hội mới. Qua đó một
mặt khẳng định HĐBCQG là cơ quan Hiến định có tính chất độc lâp, được phân công
chức năng cụ thể, một mặt tạo sự thống nhất với các cơ quan Hiến định
khác khi được quy định cụ thể, chi tiết trong các “Luật tổ chức”. Cụ thể:
“Hội đồng bầu cử quốc gia là cơ quan tổ
chức bầu cử cao nhất của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện tổ chức bầu
cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND các
cấp.
Hội đồng bầu cử quốc gia chịu trách nhiệm
trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, UBTV Quốc hội”.
Thứ hai, quy định về cơ cấu tổ chức và thành viên của HĐBCQG
Quy định số lượng
thành viên ít hơn con số 21 như quy định hiện nay cụ thể là “9 đến 15 người”[4] nhằm thuận lợi cho việc
triệu tập họp, thảo luận, biểu quyết và đưa ra quyết định. Đồng thời, với sự
phát triển nền dân chủ ở nước ta hiện nay cần bổ sung thêm thành viên là đại
diện trung lập từ các tổ chức xã hội để thể hiện tính khách quan của HĐBCQG.
Đặc biết, thành viên Hội đồng sẽ phải là những cá nhân không được nằm trong
danh sách bầu cử đại biểu Quốc hội để tránh những quan ngại không cần thiết và
phù hợp với các nguyên tắc dân chủ hiện đại.
Bên cạnh đó cần quy
định về tiêu chuẩn của các thành viên HĐBCQG. Kinh nghiệm các quốc gia trên thế
giới chỉ ra rằng thành viên của HĐBCQG cần đáp ứng các tiêu chuẩn sau: về độ
tuổi, trình độ, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm công tác, hoạt động trong các
lĩnh vực chính trị, pháp luật, bầu cử...
Thứ ba, quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HĐBCQG
Hiện nay pháp luật
mới chỉ quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HĐBCQG đó là làm việc theo
tập thể và quyết định theo đa số. Nhưng tuy nhiên, để bảo đảm tính độc lâp của
HĐBCQG cần bổ nguyên tắc: “Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ
quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc tổ chức bầu cử của HĐBCQG” (tương tự
như Tòa án và Kiểm toán nhà nước).
Thứ tư, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐBCQG
Bổ sung, quy định
một số nhiệm vụ, quyền hạn cho HĐBCQG trên cơ sở chuyển giao các nhiệm vụ,
quyền hạn của UBTVQH và Chính phủ theo quy định của các luật bầu cử hiện hành,
nhằm tạo sự thống nhất, tập trung thẩm quyền giải quyết các công việc liên quan
đến bầu cử và đại biểu về HĐBCQG.
Theo đó, cần sửa
đổi bổ sung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐBCQG theo hướng mở rộng hơn,
đặc biệt đối với việc chỉ đạo và hướng dẫn bầu cử đại biểu HĐND các cấp, cụ
thể:
“1. Hội
đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức, quản lý, giám sát, kiểm tra các cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND
các cấp.
2. Trong cuộc bầu cử đại biểu HĐND các cấp,
Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ, quyền hạn chung sau đây:
a, Quyết định tư cách bỏ phiếu của cử tri;
b, Tiếp nhận và phê duyết danh sách ứng cử;
c, Tổ chức bỏ phiếu;
d, Kiểm phiếu, thống kê phiếu;
đ, Giải quyết các khiếu nại, tranh chấp về
bầu cử;
e, Tuyên bố kết quả bầu cử;
g, Các nhiệm vụ, quyền hạn khác khi xét thấy
cần thiết.
3. Quyết định và công bố bầu cử bổ sung đại
biểu Quốc hội, tổ chức bầu cử bổ sung đại biểu HĐND; quyết định và công bố bầu
cử bổ sung đại biểu HĐND các cấp, chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử bổ sung
đại biểu HĐND các cấp.
4. Hội đồng bầu cử quốc gia có quyền thông
qua Nghị quyết, ban hành quyết định, quy chế, hướng dẫn để tổ chức, quản lý các
cuộc bầu cử phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. Các văn bản do Hội đồng bầu cử
quốc gia ban hành có hiệu lực thi hành bắt buộc.”
“Các nhiệm
vụ, quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết” có thể bao gồm: Ban hành các chính
sách bầu cử quốc gia; Lập kế hoạch phục vụ bầu cử; Đào tạo các nhân viên bầu
cử; Tổ chức giáo dục và tuyên truyền cho cử tri và nhân dân; Phân định các đơn
vị bầu cử; Lập kế hoạch và triển khai các phần mềm bầu cử; Xác minh và đăng ký
cử tri; Phát triển và tổ chức đăng ký bầu cử quốc gia; Tổ chức đăng ký ứng cử
viên của Đảng và ứng cử viên tự do; Tham gia vào quá trình hiệp thương bầu cử;
Đào tạo các giám sát viên kiểm phiếu; Quy định và công nhận về sự tham gia của
các nhóm xã hội dân sự, truyền thông, các quan sát viên bầu cử...[5]
Ngoài ra, có thể
nghiên cứu về việc trao quyền tổ chức trưng cầu ý dân cho HĐBCQG theo quyết
định của Quốc hội. Bởi lẽ, về bản chất các trình tự, thủ tục tổ chức trưng cầu
ý dân được quy định có nhiều điểm tương đồng với trình tự, thủ tục tổ chức bầu
cử Quốc hội và hai hoạt động này đều là hoạt động chính trị - pháp lý, là hình
thức dân chủ trực tiếp. Hoạt động trưng cầu dân ý là một hoạt động phức tạp,
quan trọng và cần đươc thực hiện một cách đồng bộ trên phạm vi cả nước và theo
quy định của pháp luật hiện hành, UBTVQH là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực
hiện theo quyết định của Quốc hội. Tuy nhiên, xu thế hiện nay, HĐBCQG là cơ
quan hoạt động thường xuyên, chuyên trách, có vai trò bảo đảm cho hình thức dân
chủ trực tiếp là bầu cử được thực hiện. Vì vậy cơ quan này có đủ điều kiện về
tổ chức, nhân sự và kinh nghiệm triển khai một cách đồng bộ trên phạm vi cả
nước như hoạt động tổ chức bầu cử. Đồng thời, việc trao thẩm quyền tổ chức
trưng cầu ý dân cho HĐBCQG cũng góp phần giảm thiểu bớt khối lượng công việc
cho UBTVQH, giúp cơ quan này tập trung hơn trong công tác thường trực cho Quốc
hội. Tuy nhiên, đây chỉ là phương án lâu dài bởi để làm được điều này cần phải
sửa đổi Hiến pháp năm 2013.[6]
Thứ năm, quy định về nhiệm kỳ của HĐBCQG
Hiện nay, pháp luật
quy định về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của HĐBCQG, tuy nhiên quy định này chỉ
phù hợp khi HĐBCQG hoạt động mang tính lâm thời. Còn đối với HĐBCQG là cơ quan
Hiến định như hiện nay, theo tác giả cần nghiên cứu xem xét HĐBCQG hoạt động
thường xuyên, theo nhiệm kỳ để có thể chuẩn bị cẩn trọng, chu đáo, chuyên
nghiệp cho cuộc bầu cử cũng như kịp thời giải quyết các công việc phát sinh
liên quan đến các đại biểu trong suốt nhiệm kỳ hoạt động của Quốc hội và HĐND
các cấp. Song nếu quy định nhiệm kỳ của HĐBCQG trùng với nhiệm kỳ của Quốc hội
sẽ gây khó khăn trên thực tế bởi công tác bầu cử được tiến hành từ cuối nhiệm
kỳ của Quốc hội khóa cũ đến khi HĐBCQG báo cáo kết quả cuộc bầu cử tại kỳ họp
đầu tiên của Quốc hội khóa mới nên rất khó để xác định thời điểm bắt đầu, chấm
dứt nhiệm vụ của HĐBCQG cũng như giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá
trình hoạt động của các đại biểu như có khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo về quá
trình bầu cử trước đó; hay bầu cử bổ sung... Ngược lại, nếu quy định nhiệm kỳ
của HĐBCQG lệch với nhiệm kỳ của Quốc hội sẽ dẫn đến tình trạng khó khăn trong
công tác quản lý cán bộ cũng như giảm tính khách quan khi Quốc hội khóa trước
thành lập ra HĐBCQG để tổ chức bầu cử, quản lý đại biểu Quốc hội khóa sau.
Để khắc phục được
những hạn chế trên, theo tác giả cần quy định nhiệm kỳ của HĐBCQG theo nhiệm kỳ
của Quốc hội nhằm bảo đảm tính thống nhất của các cơ quan Hiến định trong bộ
máy nhà nước nhưng đồng thời cần nghiên cứu thêm quy định về thời hạn bổ nhiệm,
bổ nhiệm lại đối với các thành viên của HĐBCQG. Mỗi thành viên có thể được bổ
nhiệm với thời hạn là 5 đến 10 năm, có thể được bổ nhiệm lại, tuy nhiên, để đảm
bảo hoạt động bình thường và liên tục của Hội đồng bầu cử, 1/3 số thành viên được
thay thế 3 năm một lần.[7] Việc đan xen nhiệm kỳ giữa
các thành viên hỗ trợ rất lớn cho việc duy trì kinh nghiệm tổ chức bầu cử cũng
như sự chuyển giao trơn tru về lãnh đạo.[8]
4. Kết luận
Những quy định của
Hiến pháp về HĐBCQG đã được thực thi, cụ thể hóa bằng các văn bản luật, dưới
luật và thực tế đã được vận dụng để tổ chức bầu cử Quốc hội khóa XIV và HĐND
các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Dù các cuộc bầu cử đã được tổ chức thành công, tuy
nhiên, nội dung các luật, văn bản dưới luật cụ thể hóa Hiến pháp 2013 về chế
định HĐBCQG được cho là làm suy giảm vị trí của HĐBCQG với tư cách là một thiết
chế hiến định độc lập. Các quy định của các văn bản luật dường như đã làm hẹp
hơn tinh thần của Hiến pháp với một HĐBCQG không có quá nhiều điểm khác biệt so
với các thiết chế phụ trách bầu cử trước đây. Điều này có lẽ là chưa hoàn toàn
phù hợp với tinh thần chung của Hiến pháp 2013 về thiết chế này. Trong thời
gian tới cần có những sửa đổi các quy định trong các luật, văn bản dưới luật
hiện hành và xây dựng một “Luật tổ chức” về Hội đổng bầu cử quốc gia theo đúng
vị trí, vai trò và tầm vóc vốn có của nó và phù hợp với xu hướng phát triển của
Việt Nam hiện nay./.
Tài
liệu tham khảo
1.
Hiến pháp năm 1946
2.
Hiến pháp năm 1959
3. Hiến pháp năm 1980
4. Hiến pháp năm 1992
5. Hiến pháp năm 2013
6. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1992
7. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997)
8. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
HĐND 2015.
9. Luật Tổ chức Quốc hội 2014
10. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015
11. Nghị quyết số 1074/2015/UBTVQH 13 ngày 11/12/2015
quy định về bộ máy giúp việc của HĐBCQG
12. Nghị
quyết số 1074/2015/UBTVQH13 ngày 11/12/2015 quy định về bộ máy giúp việc
của HĐBCQG
13. Viện Nghiên cứu lập pháp
- Chương trình phát triển Liên hợp quốc (2013), Mối quan hệ giữa Quốc hội và
Hội đồng bầu cử quốc gia, Hà Nội.
14. Viện Nghiên
cứu lập pháp, Mô hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia một số
nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, Hà Nội, năm 2013.
15. Viện Quốc tế
về Dân chủ và Hỗ trợ bầu cử, Thiết kế Quản lý bầu cử: Sổ tay IDEA Quốc tế,
(2006).
16. Quy chế làm
việc của HĐBCQG ban hành ngày 19/12/2015.
[1] Điều 12 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND
2015.
[2] Điều 13 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND
2015.
[3] Xem Viện Nghiên cứu
lập pháp - Chương trình phát triển Liên hợp quốc (2013), Mối quan hệ giữa Quốc
hội và Hội đồng bầu cử quốc gia, Hà Nội, Tr. 53.
[4] Xem Viện Nghiên cứu
lập pháp, Mô hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia một số nước
trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, Hà Nội, năm 2013, tr. 94.
[5] Xem Viện Quốc tế về
Dân chủ và Hỗ trợ bầu cử, Thiết kế Quản lý bầu cử: Sổ tay IDEA Quốc tế,
(2006). tr.63; Xem Viện Nghiên cứu lập
pháp, Mô hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia một số nước
trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, Hà Nội, năm 2013, tr. 96.
[6] Khoản 13 Điều 74
Hiến pháp năm 2013 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của UBTVQH: Tổ chức trưng
cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội.
[7] Xem Viện Nghiên cứu
lập pháp, Mô hình tổ chức và hoạt động của Hội đồng bầu cử quốc gia một số nước
trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, Hà Nội, năm 2013, tr. 95.
[8] Xem Viện Quốc tế về
Dân chủ và Hỗ trợ bầu cử, Thiết kế Quản lý bầu cử: Sổ tay IDEA Quốc tế, (2006).
tr.93.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.