ảnh Internet |
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Số 34 (3) tháng 9/2018.
Là giảng viên, tôi tâm niệm rằng, nỗ lực làm cho mình hoàn
thiện hơn từng ngày là vô cùng quan trọng, nhưng có lẽ quan trong hơn tất cả là
phải làm cho người học ngày càng giỏi hơn, gia tăng được nhiều hơn giá trị trong
lĩnh vực chuyên môn, bởi suy cho cùng, người thầy dù có nỗ lực làm cho mình
hoàn thiện hơn mỗi ngày cũng là hướng đến thành quả là người học.
Bài viết này là nỗ lực của một sinh viên năm thứ nhất dưới sự
hướng dẫn của tôi. Bài viết chắc chắn chưa hoàn thiện, tuy nhiên, với một
sinh viên năm thứ nhất đại học mà đã làm được như thế này là điều vô cùng
trân quý. Ở cùng thời điểm năm nhất đại học như bạn ấy, tôi đã không làm được như
thế. Mong rằng, đây là bước khởi đầu cho sự hoàn thiện và phát triển của sinh viên trong quá trình học tập, nghiên cứu tại Khoa Luật của chúng tôi. Xin được giới
thiệu bài viết này và đây chỉ là báo cáo tóm lược công trình nghiên cứu gần 100 trang của các tác giả.
Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích những lĩnh vực của hệ thống pháp luật
Nhật Bản đã chịu tác động, ảnh hưởng của pháp luật các quốc gia phương Tây, làm
rõ những yếu tố tiếp nhận pháp luật nước ngoài, những nguyên do góp nên thành
công của hệ thống pháp luật Nhật Bản khi tiếp nhận pháp luật từ các hệ phái
pháp luật tiến bộ khác nhau của phương Tây cũng như sự kết hợp hài hòa giữa yếu
tố truyền thống của Nhật Bản với những giá trị tiến bộ ngoại lai qua đó chỉ ra
những kinh nghiệm quý có thể tham khảo cho Việt Nam trong quá trình xây dựng,
hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay.
Từ khóa: Ảnh hưởng
của pháp luật, pháp luật phương Tây, pháp luật Nhật Bản, lịch sử pháp luật;
pháp luật Việt Nam.
1. Đặt vấn đề *
Lịch sử pháp luật Nhật Bản cận, hiện đại đã
chứng kiến những nỗ lực, quyết tâm đặc biệt để kiến thiết hệ thống pháp luật có
sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống, đạo đức Nhật Bản và những tiến bộ của
pháp luật phương Tây. Quyết tâm và nỗ lực xây dựng hệ thống pháp luật theo mô
hình phương Tây làm nền tảng hướng tới mục tiêu “khoa học phương Tây, đạo đức
phương Đông”, tạo hành lang pháp lí thuận lợi, động lực cho công cuộc hội nhập,
tiến bước cùng phương Tây hiện đại đã giúp nước Nhật thành công, đạt tới sự phát
triển thần kì. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Tại sao thời điểm đó người Nhật lại
chọn pháp luật phương Tây để tiếp nhận? Cơ sở và phương thức nào được người
Nhật quyết định lựa chọn, vận dụng các mô hình, kĩ thuật, chuẩn mực, tư tưởng
pháp luật phương Tây? Nội dung tiếp nhận qua các giai đoạn lịch sử cụ thể như
thế nào, các con đường tiếp nhận là gì? Các yếu tố nào tác động đến việc du
nạp, tiếp nhận? Các kĩ thuật nào được lựa chọn để kết hợp hài hòa giữa truyền
thống, đạo đức, giá trị Nhật Bản với các quy chuẩn, quy phạm, nguyên tắc pháp lí
phương Tây? Kĩ thuật nào được vận dụng, lựa chọn để dung hòa được các yếu tố
tiến bộ của các nền pháp luật có phần không giống nhau là Pháp, Đức và Hoa Kì
trong một truyền thống pháp luật mang đậm chất Á Đông lúc bấy giờ?
Lời giải cho những vấn đề đó có ý nghĩa và cấp
thiết cho Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong giới hạn phạm vi của bài viết
này, các tác giả tập trung tìm lời giải cho mấy vấn đề cơ bản sau: (1) Sự ảnh
hưởng và con đường ảnh hưởng của pháp luật phương Tây đến các khái cạnh của hệ
thống pháp luật Nhật Bản; (2) Nguyên nhân ảnh hưởng của pháp luật phương Tây
đến pháp luật Nhật Bản và những thành công của Nhật Bản trong việc vận dụng,
tiếp nhận pháp luật phương Tây; (3) Những giá trị mà Việt Nam có thể học hỏi từ
Nhật Bản qua sự tiếp nhận pháp luật phương Tây đặt trong bối cảnh hiện nay ở
nước ta.
2. Khái niệm về sự ảnh hưởng, tiếp nhận pháp
luật và đặc điểm cơ bản của pháp luật Nhật Bản trước khi tiếp nhận, du nạp các
yếu tố của pháp luật phương Tây
2.1. Khái niệm về ảnh hưởng và tiếp nhận pháp
luật
Ảnh hưởng của hệ thống pháp luật này đến hệ
thống pháp luật khác là mối quan hệ giữa hệ thống pháp luật của các quốc gia,
trong đó đã hoặc đang diễn ra sự chuyển hóa của các yếu tố pháp luật của quốc
gia này vào trong cấu trúc của pháp luật quốc gia kia. Ảnh hưởng có thể là tích
cực, hoặc tiêu cực hay tác động qua lại [1; tr.15]. “Các yếu tố của pháp luật”
là công cụ và đồng thời là địa chỉ của quá trình gây ảnh hưởng. Các yếu tố ảnh
hưởng có thể ở mức độ “vĩ mô” hoặc “vi mô”.
Ảnh hưởng ở tầm “vĩ mô” là ảnh hưởng toàn bộ đời
sống pháp luật - từ các quy định của pháp luật cho đến thực tiễn pháp luật và
hiểu biết, nhận thức về pháp luật hết sức đa dạng trong xã hội. Ở tầm “vi mô” -
là sự tác động trực tiếp đến các chế định và các quy phạm pháp luật cụ thể.
Khi bàn đến sự “ảnh hưởng” của pháp luật nước
này đến pháp luật nước khác, thông thường cần làm rõ ít nhất ba yếu tố của cơ
chế ảnh hưởng: Sự áp đặt của bên gây ảnh hưởng đến bên chịu ảnh hưởng; sự tiếp
nhận chủ động của bên tiếp nhận; và cuối cùng là ảnh hưởng bởi hấp lực tự nhiên
như con người ta vẫn thường hấp dẫn nhau bởi những giá trị của mình - “Hữu xạ
tự nhiên hương” [1; tr.16].
Trong khi đó, thuật ngữ “tiếp nhận pháp luật”
được hiểu là sự chủ động hay bị động (hoặc bị áp đặt) thu nạp nhiều hay ít
những “yếu tố của pháp luật”. Sự tiếp nhận chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như
sự ảnh hưởng khách quan của pháp luật từng mức độ, sự sáng tạo, chọn lọc những
giá trị phù hợp hay không phù hợp của chủ thể tiếp nhận, nhu cầu của chủ thể
tiếp nhận pháp luật…
2.2. Đặc
điểm cơ bản pháp luật Nhật Bản trước giai đoạn ảnh hưởng của pháp luật phương
Tây
Pháp luật và các thiết chế chính quyền của Nhật
Bản ở thời kì tiền cổ đại (khoảng từ năm 250 TCN đến năm 603) mang tính “thuần
Nhật”, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng, triết lí tôn giáo và không bị ảnh
hưởng của các yếu tố ngoại lai. Pháp luật Nhật Bản ở thời kì tiền cổ đại hầu
như không có sự phân biệt rạch ròi giữa quy phạm pháp luật với quy phạm xã hội
và các quy phạm tôn giáo khác [2; tr.48].
Ở thời kì
cổ đại và trung đại pháp luật Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi pháp luật
phong kiến Trung Hoa [2; tr.48]. Hệ thống pháp luật Nhật Bản trong thời kì này
còn được gọi là hệ thống “ritsu - ryo” bởi lí do nhiều bộ luật (bao gồm hai
phần, phần “ritsu” là các quy định về hình sự và phần “ryo” bao gồm các quy
định mang tính chất khuyến cáo) mô phỏng một cách trung thực các bộ luật của
nhà Đường - triều đại hưng thịnh của phong kiến Trung Hoa.
Pháp luật phong kiến Trung
Quốc lúc đó được Nhật Bản vận dụng, mô phỏng do lịch sử để lại và được cho là
phù hợp với thời kì phong kiến trong bối cảnh Trung Hoa là quốc gia trung tâm
của khu vực Đông Á. Nhưng theo thời gian, pháp luật phong kiến Trung Hoa đã trở
nên lạc hậu, kìm hãm sự phát triển toàn diện của đất nước với những đặc trưng
về tính chuyên chế, áp đặt về tư tưởng thần quyền, khép kín, hà khắc, thiếu
tính dân chủ, kém phát triển ở lĩnh vực luật tư, giao lưu dân sự, không có sự
tham khảo và học hỏi pháp luật các quốc gia khác trên thế giới. Vì vậy, khó bắt
kịp với sự vận động của pháp luật thế giới, đặc biệt là pháp luật phương Tây
tiến bộ, không khuyến khích sự giao lưu, phát triển kinh tế, tiếp nhận tư tưởng
tiến bộ, giải phóng sức lao động, tư tưởng của con người.
Nhận diện rõ những nguy cơ
tụt hậu, những bất cập của triết lí pháp luật Trung Hoa, đến thời kì cận đại và
hiện đại, Nhật Bản đã tiếp nhận và vận dụng thành công pháp luật phương Tây để
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của riêng mình, “xây dựng một nền văn
minh đặc biệt, không theo kiểu châu Âu và cũng không theo kiểu châu Á”[3].
3. Con đường ảnh hưởng của
pháp luật phương Tây đến pháp luật Nhật Bản
Nghiên cứu lịch sử
tiếp nhận pháp luật phương Tây ở Nhật bản, có thể nhận thấy những con đường cơ
bản mà qua đó pháp luật phương Tây đến với Nhật Bản, cụ thể:
3.1. Thông qua người
ngoại quốc
Pháp luật Pháp và Đức ảnh
hưởng đến Nhật Bản thông qua những cố vấn mà người Nhật mời đến. Tiêu biểu là:
các cố vấn người Pháp, đặc biệt là Boissonade, Bousquet, and Benet và Roesler
cùng các đồng sự người Đức của mình như Lorenz von Stein và Rudolf von
Gneist... Những chuyên gia đã tham gia vào quá trình xây dựng, phát triển, giáo
dục, tuyên truyền pháp luật phương Tây đến pháp luật Nhật Bản.
Pháp luật Mỹ ảnh hưởng đến
Nhật Bản với vai trò rất lớn của Thống chế Douglas MacArthur và Bộ Tổng tư lệnh
các lực lượng Đồng minh tại Nhật Bản trong quá trình xây dựng Hiến pháp 1946 và
cải cách dân chủ. Những người ngoại quốc đã mang những tư tưởng tiến bộ, dân
chủ của phương Tây tới pháp luật Nhật Bản.
3.2. Thông qua người Nhật Bản
Một trong những điều làm nên
thành công của sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài là sự chủ động, tinh thần,
quyết tâm của chính người Nhật và chính giới Nhật Bản. Trước hết, có thể kể
đến:
Thứ nhất, lực lượng đứng đầu đất nước, chính
quyền, những người tham gia xây dựng pháp luật. Những người này đã sáng suốt,
nhiều tài năng, nhiệt huyết và chủ động, không kìm hãm, không bảo thủ trong
tiếp cận những nền pháp lí mới tiến bộ (Thiên hoàng, Hoàng hậu, người trong bộ
máy nhà nước…).
Thứ hai, những cá nhân có tư tưởng tiến bộ có vai trò
trong việc truyền bá tư tưởng mới, góp phần thức tỉnh dân tộc: Trong “Thuyền trung bát sách” (Senchu Hassaku -
6/1867) của Sakamoto Ryoma - Nhân vật chủ chốt trong việc hiện đại hóa của Nhật
Bản và đóng góp và việc luật đổ triều đại Mạc Phủ Tokugawa đã đề cập nội dung: “Xóa bỏ luật lệ cũ, chế định pháp luật làm
cơ sở cho việc xây dựng quốc gia mới”. Hay trong: “Ngũ điều Ngự thệ văn” (Gokajo Goseimon) do Kido Takayoshi tu sửa
đó ghi: “Phải phá bỏ những tập quán xấu
xa và mọi việc phải dựa trên công đạo (công pháp)” [4].
Thứ ba, những người được cử sang tìm hiểu pháp
luật phương Tây hoặc được đào tạo ở phương Tây. Chẳng hạn, chính quyền Minh Trị
gửi người của mình đi khắp thế giới để nghiên cứu về pháp luật phương Tây hiện
đại. Trước tiên, họ tập trung vào pháp luật của Pháp, sau đó là tiếp thu kinh
nghiệm của pháp luật Đức vào cuối thế kỉ XIX.
3.3. Thông qua các “Tân
thư”
Tân thư chính là những sách
báo phương Tây chứa những học thuyết tiến bộ của những tác giả nổi tiếng đã
được du nhập vào Nhật Bản. Tân thư thực sự là nhịp cầu tư tưởng quan trọng kết
nối người Nhật với người phương Tây. Nhờ đó mà người Nhật sớm thoát khỏi ảnh
hưởng tư tưởng chính trị và học thuật Trung Hoa, khi ấy đã trở thành lạc hậu,
bảo thủ, kìm hãm sự phát triển của lịch sử; đồng thời, đó cũng là phương tiện quan trọng nhất để người Nhật tiếp cận và
tiếp thu một cách có bài bản, hệ thống không chỉ các tri thức, các thành tựu về
khoa học kĩ thuật, mà còn cả những tư tưởng mới về tự do, dân chủ, dân quyền;
về các thiết chế xã hội từ các nhà tư tưởng - triết học châu Âu như R.
Descartes, Voltairre, J. Rousseau, Motesquieu… [5].
4. Ảnh hưởng của pháp luật
Pháp và Đức đến pháp luật Nhật Bản
Sự mở cửa, tiếp nhận
pháp luật phương Tây của Nhật Bản bắt đầu từ năm 1868 khi Nhật Bản cải cách, mở
cửa giao lưu với các quốc gia bên ngoài và các trào lưu tư tưởng, chính trị,
pháp luật, văn hoá phương Tây nhờ đó bắt đầu được du nhập vào Nhật Bản.
Sự ảnh hưởng về tư tưởng bước
đầu thông qua tư tưởng của các cố vấn, chuyên gia nước ngoài. Cố vấn người Pháp
- Boissonade là người theo chủ nghĩa pháp luật tự nhiên, ông phản đối các hình
phạt tàn nhẫn, những chế tài hà khắc, đề cao quyền và tự do con người. Ông có
ảnh hưởng rất lớn trong giai đoạn đầu khi là người truyền bá và ủng hộ tư tưởng
thượng tôn pháp luật, bảo vệ quyền tự nhiên của con người, bất chấp giai cấp và
vị thế xã hội.
Trong khi đó, cố vấn người Đức
- Roesler là một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho trường phái lịch
sử pháp luật [6; tr.11]. Theo đó mọi hệ thống pháp luật đều phải phù hợp với
các lịch sử, văn hóa bản địa của từng quốc gia. Roesler cùng các đồng sự người
Đức của mình như Lorenz von Stein và Rudolf von Gneist là những người đưa ra
khái niệm về việc xây dựng hệ thống nhà nước thượng tôn Nhật Hoàng và một nền
quân chủ lập hiến - nền tảng chính của Hiến pháp Minh Trị.
4.2. Trong xây dựng pháp luật
Sự ảnh hưởng của Pháp tới Nhật
trong xây dựng pháp luật thể hiện ở sự giúp đỡ của các chuyên gia, cố vấn người
Pháp, đặc biệt là Boissonade, Bousquet, and Benet, nổi tiếng nhất là Boissonade
[6; tr. 199 - 200]. Boissonade cũng như các cố vấn khác là người có công lớn
trong việc đưa ra bản dự thảo hai bộ luật dân sự 1890, hình sự 1880 (刑法) (được coi là
các bộ luật hiện đại đầu tiên được pháp điển hóa tại Nhật Bản).
Có thể kể đến Yeto, người đứng
đầu Bộ Tư pháp Hoàng gia đã mời Bousquet làm cố vấn, dịch bộ luật dân sự Pháp
sang tiếng Nhật cho các thẩm phán người Nhật. Từ năm 1879, Boissonade đã thay
thế Bousquet để cố vấn cho người kế nhiệm Oghi của Yeto. Bộ luật của Boissonade
đã được chấp nhận bởi hội đồng Hoàng gia, và được tuyên bố sẽ có hiệu lực vào
năm 1893. Tuy nhiên, ngay sau đó, bộ luật này đã gặp phải chỉ trích vì lấy
nguyên mẫu quá nhiều từ bộ luật Pháp, không phù hợp với luật tự nhiên của Nhật
Bản. Kết quả là, bộ luật đã phải ngày có hiệu lực của nó đã phải lùi đến năm
1896 cũng như phải có những điều chỉnh hợp lí [7; tr. 200]. Cuối cùng, bộ luật
sau chỉnh sửa và đưa ra đã hoàn toàn khác với tác phẩm của Boissonade, nhưng
vẫn có nhiều chế định ảnh hưởng từ Pháp.
Bộ luật hình sự năm 1880 cũng
lấy mẫu từ mô hình pháp, dù bộ luật này chỉ tồn tại trên 20 năm và sau đó bị
thay thế bởi Bộ luật hình sự lấy khuôn mẫu từ Đức năm 1907, nhưng nó đã để lại
những dấu ấn mạnh mẽ, đặc biệt về việc đối xử với người phạm tội.
Sự ảnh hưởng cũng thể hiện thông
qua các cố vấn pháp luật, các chuyên gia Đức. Họ là Roesler cùng các đồng sự như
Lorenz von Stein và Rudolf von Gneist. Hiến pháp Nhật được tuyên bố vào
11/2/1889 như là một minh chứng thể hiện sự ảnh hưởng của pháp luật Đức tới
Nhật Bản.
Ngoài ra, trong bộ luật hình
sự của Nhật Bản 1907 cũng tìm thấy những dấu vết rõ nét của pháp luật Đức. Để
có được bộ luật chính thức này, hàng loạt các bản dự thảo từ năm 1894, 1901,
1903, 1906 đã chứng kiến sự tham gia của người Đức, cũng như việc lấy cảm hứng
từ pháp luật Đức của các nhà làm luật [8; tr.370] bộ luật được sửa đổi lại năm
1947 và viết lại năm 1995 sau đó.
4.3. Về nguồn pháp luật
Cũng như pháp luật Pháp, Đức -
các hệ thống pháp luật Civil Law, hình thành trên cơ sở luật La Mã, Nhật Bản có
hệ thống pháp luật thành văn. Hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội đều được
điều chỉnh bởi pháp luật thông qua các văn bản thành văn, như: Hiến pháp, Bộ
luật, văn bản quy phạm của Nghị viện và Chính phủ trung ương hay các văn bản
quy phạm pháp luật khác nhau được ban hành bởi chính quyền địa phương. Trong hệ
thống pháp luật, nguồn luật quan trọng của pháp luật Nhật Bản là Hiến pháp, đạo
luật của Nghị viện, văn bản pháp luật (Meirei) do Nội các hay các cơ quan hành
chính ban hành, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương Nhật Bản
(Jorei). Ngoài ra, còn có các điều ước quốc tế (Joyaku), tập quán pháp
(kanshu), các quan điểm học thuật (gakusetsu), các bản án mẫu hay hình thức
giải thích pháp luật bởi tòa án (hanrei).
4.4. Trong giáo dục, đào tạo
pháp luật
Năm 1872, Boissonade and
Bousquet đã dạy tiếng Pháp cho những người sẽ trở thành thẩm phán tại khoa luật
được thành lập bởi Bộ Tư pháp Nhật Bản. Sau này, chính khoa này vào năm 1876 đã
trở thành “Special school of French law” (Trường luật đặc biệt của Pháp), dạy
pháp luật Pháp bằng tiếng Pháp ở Nhật Bản. Năm 1877, Chính phủ Nhật Bản mở ra
một trường luật khác dạy pháp luật Pháp bằng tiếng Nhật. Boisonade cũng như các
giảng viên người Pháp khác đã giảng dạy tại trường Đại học luật Tokyo (1870) và
sau này là hàng loạt các trường luật tư tại Tokyo [6; tr.199].
Khoa học pháp lí Đức phát
triển rất nhanh chóng tại Nhật. Năm 1885, Khoa Luật của Bộ Tư pháp được mở ra,
phát triển từ Đại học Hoàng gia Tokyo và có một bộ phận nghiên cứu luật Đức
được thành lập ở đây vào năm 1887. Chính phủ khuyến khích tạo lập môi trường
học tập thuận lợi cho việc nghiên cứu pháp luật Đức. Mặc dù pháp luật Anh, Pháp
cũng được giảng dạy, nhưng tư tưởng pháp luật Đức đã chiếm ưu thế lớn tại Nhật
trong suốt thời kí này cho đến tận trước khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần
thứ hai [9; tr.110].
Ngày nay, nhìn chung, đào tạo
luật ở Nhật Bản tương tự như đào tạo luật ở các nước có hệ thống pháp luật
thuộc dòng họ Civil law, đặc biệt là gần gũi với mô hình đào tạo của Pháp và
Đức [10; tr.393].
4.5. Về hệ thống tòa án
Hệ thống tòa án của Nhật được xây dựng trên cơ sở tiếp thu mô hình hệ
thống tư pháp của các nước thuộc hệ thống pháp luật Civil Law mà chủ yếu là của
Pháp và Đức. Tòa án chịu sự giám sát của cơ quan hành pháp. Sau Chiến tranh thế
giới thứ hai, hệ thống tòa án của Nhật đã có sự thay đổi và không còn chịu sự
can thiệp của chính phủ như trước mà đã có vị trí độc lập trong bộ máy nhà
nước. Hệ thống Tòa án của Nhật ngày nay được tổ chức tương tự như hệ thống pháp
luật các nước phương Tây.
5. Ảnh hưởng của pháp luật Mỹ
đến pháp luật Nhật Bản
Sau
Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản bị quân đội Mỹ chiếm đóng. Người giữ
trách nhiệm “Chỉ huy tối cao Bộ Tổng tư lệnh các lực lượng Đồng minh” (General
Headquaters of Supreme Commander for the
Allied Powers - SCAP) là tướng Douglas MacArthur. Ông có vài trò to lớn trong
những cải cách dân chủ ở Nhật Bản, trong đó có hệ thống pháp luật.
5.1. Về tư tưởng pháp luật
Những quan điểm, tư tưởng mới
đã được Mỹ mang đến cho Nhật Bản, đặc biệt là tư tưởng dân chủ, bình đẳng và
bảo vệ hòa bình.
Đối với Bộ luật hình sự 1907,
tướng MacAthur cũng đưa ra chỉ định yêu cầu hủy bỏ điều luật về tội “leje
majesty” (tạm dịch là bất kính với Thiên Hoàng, xúc phạm nhà nước) trong bộ
luật cổ. Ông cho rằng điều này đã đi ngược lại quyền bình đẳng của tất cả mọi
người trước pháp luật. Ông cũng buộc thay đổi tội ngoại tình khi trước đây nó
chỉ được buộc tội cho phụ nữ. Ông nhận thấy như thế là bất bình đẳng giới nên “một
là phải quy tội cho cả hai, hoặc là bỏ đi…”.
Hiến pháp năm 1946 của Nhật được xây dựng với
mục đích vô cùng tiến bộ. Trong đó, buộc nhà nước phải hoạch định nền chính trị
theo những quy định tối cao của Hiến pháp. Hiến pháp đã xác định ba nguyên tắc:
Chủ quyền cho nhân dân, bảo đảm nhân quyền cơ bản và tinh thần hòa bình.
Các điều khoản của Hiến pháp
được xây dựng trên cơ sở phủ định khuynh hướng quân biệt và xâm lược của Nhật
Bản trong quá khứ, triệt để quá triệt nguyên tắc hòa bình như Điều 9 quy định:
“Tham vọng chân thành đến một nền hòa bình quốc tế dựa trên công bằng và trật
tự, người dân Nhật Bản mãi mãi từ bỏ chiến tranh như quyền tự chủ của dân tộc
và các mối đe dọa hoặc sử dụng vũ lực như một phương tiện giải quyết các tranh
chấp quốc tế.
Để thực hiện mục đích đấy,
đất, biển, và lực lượng không quân, cũng như những tiềm tàng gây chiến tranh,
sẽ không được duy trì. Quyền giao chiến của nhà nước sẽ không được công nhận”
[11].
5.2. Trong xây dựng pháp luật
Trước hết, Bộ luật Hình sự
1907 đã được chỉnh lí từ Bộ luật Hình sự 1880 và gần như tồn tại nguyên đến
ngày nay (dù đã được chỉnh sửa, bổ sung). Người Mỹ đã điều chỉnh một số vấn đề
trong bộ luật như tăng tuổi phạm tội tối thiểu được nâng từ 14 lên 16, hay buộc
phải điều chỉnh cách viết luật, sử dụng bảng chữ cái mềm và cứng Hiragana,
Katakana thay cho những từ Kanji khó đọc.
Tuy nhiên, phải đến Hiến pháp
1946 mới thấy rõ dấu ấn của sự ảnh hưởng của pháp luật Mỹ đến hệ thống pháp
luật Nhật Bản.
Tháng 2/1946 phía Nhật Bản đã
viết dự thảo Hiến pháp, nhưng Douglas MacArthur không chấp nhận, coi đó chẳng
qua chỉ là một thứ “bình cũ rượu pha” [12] của Hiến pháp Minh Trị. Chính vì
thế, MacAthur đã ra lệnh cho văn phòng của mình tự thảo ra Hiến pháp mới cho
Nhật Bản kịp trước phiên họp ngày 26 tháng 2 năm 1946 của quân Đồng minh.
Hiến pháp Nhật Bản có hiệu lực
ngày 3/5/1947 kèm theo sau đó là các dự luật
được Chính phủ Nhật Bản xây dựng trên cơ sở chỉ đạo của Mỹ (được Quốc
hội thông qua từ 1947 - 1948) với các nội dung cơ bản: Phép tắc Hoàng đế; Luật
về Quốc hội; luật Bầu cử hạ viện; Luật Bầu cử thượng viện; Luật Nội các; Luật
tổ chức hành chính quốc gia; Luật công chức nhà nước; Luật về khiếu nại; Luật
về tòa án; Luật về viện công tố; Luật địa phương tự trị; Luật về cảnh sát; Luật
giáo dục phổ thông; Luật giáo dục trường học…
Ngoài ra, việc sửa đổi Bộ luật
Dân sự năm 1947 (Chiêu Hòa thứ 22) dẫn đến kết quả là đã sửa đổi toàn bộ các
phần quy định về luật gia đình và luật thừa kế, chế độ gia trưởng bị xóa bỏ. [13;
tr.88 - 89].
5.3. Về hệ thống tư pháp
Theo Hiến pháp năm 1947, trong
khi nhánh lập pháp và hành pháp của Nhật Bản được tổ chức cơ bản giống nền chính
trị Anh quốc, thì nhánh tư pháp - tòa án lại được tổ chức giống như ở Mỹ. Tương
tự thẩm phán Mỹ, thẩm phán Nhật Bản phải từ bỏ các đảng phái để xét xử độc lập
và hưởng lương cao [14].
Điều 81 Hiến pháp Nhật Bản đã
học tập Hiến pháp Mỹ và quy định cho Tòa án tối cao quyềnquyết định cuối cùng
về tính hợp hiến: “Tòa án tối cao là cấp xét xử cao nhất với thẩm quyền xác
định tính hợp hiến của các đạo luật, sắc lệnh, quy tắc hoặc các hành vi công
khác” [15; tr.133].
5.4. Về nguồn luật
Về lí thuyết, thẩm phán Nhật Bản không có
nghĩa vụ phải tuân thủ tiền lệ pháp và cũng không có điều khoản cụ thể nào quy
định rằng các phán quyết trong quá khứ của tòa án là tiền lệ pháp, là nguồn
luật và rằng Nhật Bản áp dụng học thuyết tiền lệ pháp. Nhưng trên thực tế, phán
quyết của Tòa án tối cao thường được các tòa án cấp dưới tôn trọng và tuân thủ
như một nguồn luật cơ bản và thuật ngữ “tiền lệ pháp” (precedents) thường được
sử dụng khi nói về phán quyết của Tòa án Tối cao [10; tr.387].
Ngoài ra, án lệ của Mỹ cũng có
ảnh hưởng đến cách giải thích và sử dụng pháp luật của Nhật Bản. Ảnh hưởng này
có thể nhìn thấy trong việc giải thích những quyền cơ bản trong Hiến pháp Nhật
bản [12; tr.163 -164].
5.5. Về mô hình tố tụng hình
sự
Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) của Nhật Bản trong quá trình soạn thảo có sự giúp đỡ tích cực từ phía
Mỹ và phản ảnh rõ nét quan điểm pháp luật tố tụng của người Mỹ. Cụ thể, sự ảnh
hưởng đó thể hiện trong các quy định về nguyên tắc tranh tụng, điều tra thu
thập tài liệu, chứng cứ, hạn chế trong việc chấp nhận chứng cứ gián tiếp.
BLTTHS của Nhật Bản được soạn thảo theo khuôn mẫu của BLTTHS Mỹ ngoại trừ chế
định xét xử có Bồi thẩm đoàn. Trong quá trình tố tụng, thẩm phán chỉ đóng vai
trò trọng tài, vai trò chính trong quá trình tố tụng được dành cho đại diện của
bên buộc tội và bên bào chữa. Tuy vậy, vai trò của thẩm phán Nhật Bản có nét
khác với vai trò thẩm phán Mỹ. Do không tiếp thu chế định bồi thẩm của Mỹ mà
các thẩm quyền của thẩm phán Nhật Bản rộng hơn thẩm quyền của các thẩm phán Mỹ.
Trong thủ tục tố tụng, có sự thay đổi phương thức thẩm vấn nhân chứng theo kiểu
tố tụng đối kháng [16].
6. Kết luận và một số gợi mở
6.1. Nguyên nhân ảnh hưởng pháp
luật phương Tây đến pháp luật Nhật Bản
Trên thực tế, ban đầu việc
tiếp nhận pháp luật phương Tây không hoàn toàn suôn sẻ bởi đã có nhiều rào cản,
như: (1) Tư tưởng Nho giáo bảo thủ, giáo điều đã tồn tại ở Nhật Bản suốt một
thời gian dài và đã ảnh hưởng, chi phối nhiều lĩnh vực từ chính trị, kinh tế,
pháp luật, văn hóa...; (2) Nhật Bản là một quốc đảo, có một vị trí khá biệt lập
ở phía Đông của châu Á, tính chất đảo khiến người Nhật mang tâm lí “đảo quốc -
Shimakuni” - vừa hiếu khách, lại vừa dè dặt trong giao tiếp và quan hệ với
người khác, vừa mang lòng tự tôn dân tộc vừa tự ti mặc cảm, có thái độ bài
ngoại... [17; tr. 22 - 23]; (3) Khó khăn về ngoại ngữ và dịch những bộ luật,
tài liệu từ tiếng nước ngoài sang tiếng Nhật; (4) Sự duy trì của những phong tục
tập quán đã ăn sâu vào mỗi người dân khiến họ khó chấp nhận thay đổi…
Tuy nhiên, cùng với đó là
nguyên nhân khiến Nhật Bản chấp nhận thay đổi, tiếp nhận tư tưởng pháp luật
mới. Trước hết, theo các tác giả, cần phải kể đến cả nguyên nhân khách quan và
chủ quan.
Về nguyên nhân khách quan,
Nhật Bản thời kì cuối thế kỉ XIX đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phương Tây do sự
phát triển và lan rộng của văn minh phương Tây sang phương Đông qua nhiều con
đường khác nhau, như: xâm lược, phát triển thương mại, du học… Ví dụ như Pháp
luật Nhật Bản chịu ảnh hưởng đầu tiên từ pháp luật Pháp trong thời gian đầu
tiến hành cải cách (cuối thế kỉ XIX) là do giai đoạn này chính trị và pháp luật
Napoleon đang vươn mình ảnh hưởng tới vùng Viễn Đông, đây là tiền đề để những người
Nhật thức thời tiếp nhận và đi theo tư tưởng pháp luật mới.
Về những nguyên nhân chủ quan,
trước hết, có thể kể đến:
Thứ nhất, những người đứng đầu đất nước Nhật
Bản muốn thoát khỏi ảnh hưởng của phong kiến Trung Quốc khi nhận thức rằng
những nguy cơ sẽ tác động tiêu cực từ Trung Quốc đến Nhật Bản và nhiều tư
tưởng, quan điểm phong kiến của họ không còn phù hợp sẽ có thể sẽ kéo lùi sự
phát triển của Nhật Bản. Nền văn minh Trung Quốc đã dần suy yếu, đặc biệt kể từ
năm 1644 khi triều Minh sụp đổ và bị nước ngoài kiểm soát. Sự kiện này ở Trung
Quốc trùng hợp với giai đoạn đầu của chế độ Mạc phủ Tokugawa (1600-1868); khi
đó các tướng lĩnh cai trị đang tìm cách bảo vệ nhà nước Nhật và bản thân họ
khỏi tầm ảnh hưởng của ngoại bang, trong đó có Trung Quốc. Với quyết tâm bảo vệ
nền tự chủ đồng thời ý thức được các hệ tư tưởng trái chiều nhau, Mạc phủ đã ra
lệnh cấm người dân Nhật Bản ra nước ngoài (người phạm tội sẽ bị xử tử) [18].
Thứ hai, sự minh triết của Thiên hoàng cùng tinh thần dân
tộc, ái quốc của những người trong chính quyền đã ủng hộ Thiên hoàng cách tân
đất nước đồng thời là thái độ cởi mở tiếp thu học tập cái mới, tiến bộ của
người Nhật Bản. Thiên hoàng không chỉ loại bỏ những rào cản đối với công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nhật Bản mà còn đóng vai trò quan trọng trong
việc truyền bá cái mới, nền văn minh hiện đại từ phương Tây, giáo dục dân tộc
biết tiếp thu cái mới. Ngoài Thiên hoàng, Hoàng hậu Nhật Bản cũng đóng vai trò quan trọng và là một gia đình phương Tây
để đưa đất nước trên con đường “văn minh và ánh sáng” [19]
Thứ ba, chính trong những hoàn cảnh khó khăn,
vận mệnh dân tộc lâm nguy, người Nhật Bản đã chấp nhận thay đổi, bỏ cái cũ, cái
lạc hậu (mặc dù đã tồn tại khá vững chắc ở: (1) Nhật Bản đã từ bỏ những quy
định cổ hủ trong tư tưởng Nho giáo để tiếp nhận và đi theo nền văn minh phương
Tây nhằm phát triển, nâng cao tiềm lực vị thế đất nước trong bối cảnh đất nước
khó khăn và nguy cơ các nước phương Tây đẩy mạnh xâm lược; (2) Nhật Bản đã chấp
nhận từ bỏ chiến tranh, gạt bỏ thù hận để tiếp nhận, học hỏi chính đối thủ của
mình trong Chiến tranh thế giới lần nhứ II để từ đống đổ nát sau chiến tranh
thể khôi phục kinh tế, ổn định chính trị và bước vào thời kì phát triển “thần kì
sau đó”.
6.2. Nguyên nhân Nhật Bản vận
dụng thành công pháp luật phương Tây
Sự thành công của Nhật Bản
trong việc tiếp nhận, vận dụng pháp luật Phương Tây thể hiện ở: (1) Nhật Bản đã
không phải bỏ nhiều công sức, thời gian xây dựng cho riêng mình hệ thống pháp
luật tương đối hoàn chỉnh, hiện đại, tiến bộ, phù hợp với xu thế của thời đại,
có sự kết hợp giữa yếu tố ngoại lai và tính bản địa dân tộc, góp phần đẩy lùi
những tư tưởng pháp luật phong kiến đã lỗi thời; (2) Hệ thống pháp luật tiến bộ
đã góp phần đáng kể cho sự phát triển trên nhiều lĩnh vực của Nhật Bản, từ chính
trị, văn hóa, trật tự xã hội và nền kinh tế; (3) Hệ thống pháp luật Nhật Bản
giữ vị trí nhất định trong bản đồ pháp luật thế giới: Nhật Bản là quốc gia
phương Đông tiếp nhận, vận dụng thành công nhất pháp luật phương Tây và từ đó
để lại nhiều bài học kinh nghiệm, giá trị tham khảo cho nhiều quốc gia; (4)
Pháp luật Nhật Bản từ chỗ bất bình đẳng với pháp luật phương Tây, phải học hỏi
từ các nước lớn đã phát triển ngang hàng, thậm chí có những tiến bộ và phù hợp
hơn với Nhật Bản. Trong lĩnh vực luật kinh tế, Nhật Bản đã tạo điều kiện để
phát triển những công ty nhỏ, công ty gia đình khá linh hoạt, thích ứng với
những khủng hoảng mang tính chu kì vốn là căn bệnh “trầm kha” của nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa. “Nhật Bản đã không giới hạn số vốn nhỏ nhất, nhưng các công
ty cổ phần phải có uy tín cao trong xã hội. Phần lớn các công ty cổ phần có số
vốn ít và số cổ đông cũng ít, các cổ phần không được mua bán trên thị trường.
Trong đa số các trường hợp, số lượng các cổ đông được giới hạn trong gia tộc,
vì vậy đại hội cổ đông, hội đồng quản trị dù đã được quy định trong luật, thực
tế không được triệu tập” [12; tr. 250]. Những thành công đó do nhiều nguyên
nhân, trước hết phải kể đến như:
Thứ nhất, người Nhật Bản mà trước hết là những người đứng đầu đất nước
đã rất thức thời, dám nghĩ, dám làm, tiên phong, cởi mở để tiếp nhận các giá trị,
tư tưởng hiện đại của pháp luật phương Tây, đồng thời thực hiện cải cách toàn
diện trên nhiều lĩnh vực, tạo điều kiện cho pháp luật thích ứng và phát triển.
Nhật Bản đã mạnh dạn từ bỏ những ảnh hưởng của Nho giáo phong kiến kìm hãm sự
phát triển để thay đổi toàn bộ đất nước mình từ chính trị, pháp luật, kinh tế đến
văn hóa. Trong đó, mọi lĩnh vực đều ảnh hưởng đến pháp luật. Người Nhật và
chính giới Nhật Bản cho rằng không thể có cải cách pháp luật thành công nếu các
lĩnh vực khác không được cải cách. Bởi pháp luật không thể tách rời với các hiện
tượng khác của hạ tầng cơ sở và kiến trúc thượng tầng, trong đó có giáo dục,
văn hóa, kinh tế và chính trị.
Thứ hai, Nhật Bản có phương
thức tiếp nhận văn minh phương Tây được cho là đúng đắn và phù hợp. Người Nhật
tiếp thu một cách chọn lọc, không dập khuôn những giá trị tiên tiến nhất của
thời đại mà tiếp nhận những giá trị hơn mình nhằm “đi tắt đón đầu” hiệu quả. GS. Vĩnh Sính viết rằng: “Có thể nói rằng
không có dân tộc nào nhạy bén về văn hóa nước ngoài cho bằng người Nhật. Họ
không ngừng theo dõi những diễn tiến trên thế giới bên ngoài, đánh giá và cân
nhắc ảnh hưởng của những trào lưu và xu hướng chính đối với Nhật Bản. Một điều
đáng chú ý khác là khi họ biết trào lưu nào đang thắng thế thì họ có khuynh
hướng chấp nhận, học hỏi, nghiên cứu để bắt kịp trào lưu đó, không để mất thời
cơ” [20].
Thứ ba, song hành cùng pháp luật, Nhật Bản tiếp nhận các giá trị của nền
giáo dục tiến bộ của văn minh phương Tây nhưng biết giữ gìn các giá trị Nhật
Bản. Ngay từ đầu, Chính phủ Minh Trị đã nhận thức rất rõ rằng muốn học tập và
tiếp thu một cách thực sự nền khoa học của phương Tây, thì cần phải bắt đầu từ
giáo dục. Do đó giáo dục được xác định là quốc sách hàng đầu là chìa khóa để hiện
đại hóa Nhật Bản. Phương châm của nền giáo dục mới cũng được xác định là “học
đi đôi với hành, nền học thuật không tách rời với đời sống, học dựa trên tinh
thần khoa học độc lập có phê phán”, đặc biệt là trên nguyên tắc “khoa học
phương Tây, đạo đức Nhật Bản”, chính nhờ việc xác định đúng đắn phương châm
giáo dục cho nên Nhật Bản du nhập, học hỏi khoa học kĩ thuật phương Tây để cận
đại hóa rất mạnh mẽ, nhưng không hề bị phương Tây hóa.
6.3. Sự kết hợp giữa pháp luật
phương Tây với pháp luật truyền thống của Nhật Bản
Có nhiều lí do khác nhau để
giải thích về sự ảnh hưởng của các giá trị đạo đức, triết lí truyền thống và
chuẩn mực xã hội đối với vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội Nhật Bản.
Dưới đây là một số ví dụ điển hình của các giá trị đạo đức, triết lí truyền
thống và chuẩn mực xã hội vẫn được giữ gìn và kết hợp với pháp luật. (1) Quy
tắc “giri” trong xã hội Nhật Bản: “giri” là hệ thống các chuẩn mực xử sự mang
tính xã hội truyền thống nhằm điều chỉnh các mối quan hệ nảy sinh trong đời
sống xã hội. (2) Ngoài ra, còn có hướng dẫn hành chính (“gyosei shido”) trong
thực tiễn thi hành pháp luật ở Nhật Bản: Những
chỉ dẫn do các cơ quan hoặc cán bộ có trách nhiệm quản lí đưa ra nhằm mục đích
đề nghị các chủ thể có liên quan thực hiện hoặc không thực hiện những hoạt động
cụ thể phù hợp với mục tiêu đặt ra trong hoạt động quản lí [21].
6.4. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam
Nhật Bản và Việt Nam đều là
những quốc gia có nhiều nét tương đồng về lịch sử và văn hóa. Trong lịch sử,
Nhật Bản đã được dân tộc Việt Nam gọi là “người anh cả da vàng”, là quốc gia
với nhiều thứ đáng để học hỏi. Quá trình hiện đại hóa hệ thống pháp luật ở Nhật
Bản đã để lại nhiều giá trị cho Việt Nam xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật qua việc đã tiếp nhận và vận dụng thành công pháp luật phương Tây, cụ thể:
Thứ nhất, Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách pháp
luật đồng thời cải cách toàn diện, đồng bộ chính trị, kinh tế nhằm tạo điều
kiện cho pháp luật thích ứng và phát triển. Cải cách pháp luật không thể thành
công nếu không song hành cùng những cải cách đồng bộ về văn hóa, kinh tế, chính
trị và giáo dục.
Thứ hai, quá trình tiếp nhận giá trị mới cần
có sự nghiên cứu công phu, nghiêm túc với những đối chiếu, so sánh từ đó học
hỏi, vận dụng những giá trị tiên tiến nhất, phù hợp nhất đối với hệ thống pháp
luật và điều kiện của nước nhà. Đồng thời, cần cẩn trọng để tránh sự thiếu thống
nhất trong việc tiếp nhận, xây dựng pháp luật khi học hỏi quá nhiều nền pháp luật
khác nhau và cần phải biết kết hợp với những giá trị pháp luật truyền thống của
Việt Nam.
Thứ ba, cử cán bộ có tiềm năng và tâm huyết đi
nghiên cứu học tập kinh nghiệm tại các nước mà mình quan tâm trong khoảng thời
gian đủ dài thay vì những chuyến khảo sát ngắn hạn. Đây là kinh nghiệm thành
công của Nhật hoàng trong lịch sử.
Thứ tư, ở tầm vi vô, có thể nghiên cứu một số
kinh nghiệm Nhật Bản trong quá trình cải cách hệ thống pháp luật của Việt Nam
như: (1) Thiết lập cơ chế hợp tác hiệu quả, ổn định với các chuyên gia uy tín ở
các trường luật hàng đầu thế giới - những nơi có những điều kiện phù hợp, muốn
tiếp nhận; (2) Xây dựng một hệ thống tòa án chuyên nghiệp, độc lập và không
tham nhũng, có đầy đủ sự tự tin để phát triển pháp luật và xây dựng án lệ đáp
ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước (đặc biệt
trong bối cảnh cơ quan lập pháp không thể hoặc không phản ứng một cách nhanh
chóng và toàn diện) [22].
Như vậy, hệ thống pháp luật
Nhật Bản từ khi mới hình thành đến nay không chỉ chịu sự ảnh hưởng của pháp
luật phong kiến Trung Quốc mà sau đó còn chịu ảnh hưởng bởi hai hệ thống pháp
luật lớn nhất thế giới: Hệ thống pháp luật Civil Law và hệ thống pháp luật
Common Law. Sự ảnh hưởng đó vừa có yếu tố khách quan, nhưng phần lớn là sự tiếp
nhận một các chủ động do nhu cầu tự thân và sự hấp dẫn bởi những giá trị tiến
bộ. Nhật Bản đã cẩn trọng, khôn khéo và nỗ lực trong việc tiếp nhận và “Nhật
hóa” những giá trị tiên tiến nhất về pháp luật ở khắp nơi trên thế giới để
chuyển hóa thành những thành những chuẩn mực của mình. Thành quả là Nhật Bản đã
xây dựng được hệ thống pháp luật toàn diện, tiến bộ, phù hợp, có vị trí trên bản
đồ pháp luật thế giới, thực sự là hình mẫu để nhiều quốc gia học hỏi, tham
khảo, trong đó có Việt Nam. Đứng trước những biến động của thời đại, nhu cầu
phát triển của dân tộc, Nhật Bản đã chọn cải cách pháp luật là một trong những
nhiệm vụ trung tâm để xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Thiết nghĩ, đó
là lựa chọn đúng đắn bởi pháp luật có giá trị lớn bởi khả năng tác động đến
quảng đại quần chúng, tổ chức quản trị quốc gia, là cầu nối với thế giới hiện
đại. Người Nhật cũng đã rất đúng khi tìm đến những nền pháp luật phát triển
nhất của thời đại để học hỏi, tham khảo (Pháp, Đức, Mỹ). Người Nhật đã không
chỉ nhận thấy giá trị tiến bộ của nền pháp luật phương Tây mà còn mạnh dạn tiếp
nhận một nền pháp luật mới một cách đồng bộ với các thiết chế, hiện tượng và
giá trị văn minh tiến bộ khác và biết kết hợp hài hòa với các giá trị truyền
thống của mình xây dựng một văn minh pháp luật Nhật Bản, làm nên một chỗ đứng
riêng cho nền pháp luật nước Nhật trên bản đồ của pháp luật trên thế giới. Đó
cũng là những điều đáng để chúng ta tham khảo trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách
hệ thống pháp luật, hội nhập quốc tế hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1] Ảnh hưởng của truyền thống
pháp luật Pháp tới pháp luật Việt Nam (sách chuyên khảo). NXB. ĐHQGHN, 2016
(bài viết: Mối quan hệ của pháp luật Việt
Nam và pháp luật Pháp xét từ logic của sự tiếp nhận và chuyển hóa pháp luật của
GS TSKH. Đào Trí Úc).
[2] Nguyễn Văn Quang, Văn hóa
pháp luật Nhật Bản - Sự kết hợp truyền thống và hiện đại. Tạp chí Luật học
8/2014.
[3] Takaoka Saochihiko,140 năm cận đại Nhật Bản và
những đặc trưng văn hóa Nhật Bản. Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á; số
2 (56) 4 -2005.
[4] Nguyễn Tiến Lực, Quá trình
hình thành cương lĩnh duy tân ở Nhật Bản giữa thế kỉ XIX. Tạp chí nghiên cứu
Đông Bắc Á; số 10 (140), 2012.
[5] Phan Trọng Thưởng, Tân thư
và phong trào Duy Tân ở Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam thời kì cận đại xem tại:
http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tan-thu-va-phong-trao-duy-tan-o-nhat-ban-trung-quoc-va-viet-nam-thoi-ky-can-dai.html (truy cập ngày 27/3/2018).
[6] Hermann Roesler and the
Making of the Meiji State: An Examination of His Background and His Influence
on the Founders of Modern Japan & the Complete... by His Personal
Commentaries and Notes Hardcover - 1968 by Johannes Siemes (Author).
[7] The Debt of
Modern Japanese Law to French Law; Charles P. Sherman; March 1918.
[8] History Of
Law In Japan Since 1868; Editor: Wilhelm Röhl; pp 620. Wilhelm Röhl, LL.D.
(1950), Ph.D. (1955) in Japanology, University of Hamburg, was jurist in
various positions, and has retired. He has published extensively on Japanese
legal history, pre-modern law in particular.
[9] Japanese
Legal System.
[10]
Giáo trình Luật so sánh, Trường Đại học Luật Hà Nội.
NXB Công an nhân dân, năm 2015.
[11]
Dịch theo trang
http://www.sangiin.go.jp/eng/law/tcoj/index.htm.
[12]
Danh tướng Mỹ trên đất nước Mặt trời mọc: Sứ quân da
trắng mắt xanh. Quang Hiếu lược dịnh từ quyển “Hồi tưởng” - Reminiscences - của
Douglas MacArthur; bài biết đăng trên Báo Công an nhân dân điện tử. Xem tại: http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Vi-tri-dac-biet-cua-danh-tuong-My-tren-dat-nuoc-Mat-troi-moc-bai-2-461501/ (truy cập
ngày 30/5/2018).
[13]
Tìm hiểu pháp luật Nhật Bản; Tsuneo Inako; 1993; Nhà
xuất bản Khoa học xã hội.
[14]
Lương Văn Kế, Ảnh hưởng của giá trị phương Tây đối với
Hiến pháp Nhật Bản 1946. Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á; số 9; năm 2009.
[15]
“Tuyển tập Hiến pháp một số nước trên thế giới”; Nhà
xuất bản thống kê; Hà Nội năm 2009.
[16]
Mô hình tố tụng
hình sự Nhật Bản; Trường Đại học Kiểm sát; truy cập ngày 22/3/2018 tại:
http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/146.
[17]
Ảnh hưởng phương Tây đối với văn hóa Nhật Bản thời kì
Minh Trị - Kinh nghiệm cho Việt Nam; Luận án tiến sĩ lịch sử; Nguyễn Thu Hằng;
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (ĐHQGHN); năm 2016.
[18]
Nhật Bản và quá trình 'cắt đứt' đau đớn với Trung Quốc;
David Pilling. truy cập ngày 30/5/2018 tại:
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/nhat-ban-va-qua-trinh-cat-dut-dau-don-voi-tq-168115.html
[19]
Vai trò của Thiên hoàng trong thời kì Minh Trị của Nhật
Bản; tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á; số 5 (53); 10 – 2004; Nguyễn Ngọc
Nghiệp.
[20]
Về cách thức tiếp nhận văn minh bên ngoài của Nhật Bản;
TS. Nguyễn Tiến Lực; Trường Đại học KHXH&NV; Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh, truy cập ngày 27/3/2018; tại:
https://nghiencuulichsu.com/2016/05/27/ve-cach-thuc-tiep-nhan-van-minh-ben-ngoai-cua-nhat-ban/.
[21]
TS. Nguyễn Văn Quang, Văn hóa pháp luật Nhật Bản – Sự
kết hợp truyền thống và hiện đại. Tạp chí Luật học 8/2014.
[22] Bộ Tư pháp.
Báo cáo “Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp của năm quốc gia:
Trung Quốc, In-đô-nê-xia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga” (Với sự hỗ trợ của Chương
trình phát triển của Liên Hợp quốc (UNDP) và với sự tham gia của nhóm các
chuyên gia quốc tế Dự án “Tăng cường tiếp cận công lí và bảo vệ quyền tại Việt
Nam”). NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2011.
The
Influence of Western Laws on Japanese Law
in
History and Experience for Vietnam Today
Hoang
Van Doan, Mai Van Thang
VNUSchool of
Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Abstract:
This article approaches from a legal history
perspective to discover the effects of advanced laws in Western such as
Germany, France, the United States on Japanese law in the modern era. Thereby,
the authors clarify the ways of integrating foreign law and decode the choices,
decisions of the Japanese government. This paper also focuses on analysis areas
of the Japanese legal system that have been affected by the Western laws as
well as clarifies the factors of foreign law integration and reasons of the success of the Japanese legal system when
it integrates laws from different legal systems of the West as well as the
harmonious combination of traditional Japanese elements with extrinsic progress
values. It shows the valuable experiences for Vietnam in the process of
building and perfecting the current legal system.
Keywords: influence of law, Western law,
Japanese law, history of law, Vietnamese law.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.