ảnh: Internet |
Mai Văn Thắng
Khoa Luật, ĐHQGHN
Những ngày nghỉ Tết Nguyên đán về đoàn viên với gia đình, quê hương, vì có thời gian rảnh, không biết làm gì nên tôi có chút mơ màng và suy tư về đào tạo luật ở Việt Nam trong bối cảnh CMCN 4.0. Bài viết này chỉ là cảm nhận, phân tích của cá nhân với nhiều hạn chế về nhận thức, nên mong nhận được góp ý chân thành của các đồng nghiệp và những ai quan tâm!
Trân trọng cám ơn!
1. Dẫn nhập
Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang hiện hữu trong mọi khía cạnh của cuộc sống xã hội.
Nhận thức đúng bản chất, nội dung của cuộc cách mạng này và nắm vững được những
cơ hội, thách thức mà nó đem lại giúp cho mỗi quốc gia điều chỉnh, xây dựng được
chiến lược phù hợp tận dụng thời cơ để phát triển đất nước và không bị bỏ lại
phía sau.
CMCN 4.0 lần đầu tiên được
đề cập đến từ năm 2011[1]
tại Đức và, thực tế, đã được tận dụng khá thành công ở nhiều quốc gia, tập
đoàn, doanh nghiệp góp phần tạo thịnh vượng, thiết lập các xu hướng, dẫn dắt sự
phát triển của thế giới.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà
nước đã rất quan tâm, đẩy mạnh truyền thông về cuộc cách mạng này và đã có những
quyết sách bước đầu quan trọng.[2]
Trong lĩnh vực học thuật, đã có một số hoạt động, nghiên cứu có chất lượng bàn
về CMCN 4.0 nhằm chỉ ra những thách thức, cơ hội mà Việt Nam đã và sẽ đối diện.[3]
Tuy nhiên, thực tế cho thấy không chỉ nhận thức về CMCN 4.0 chưa thật đầy đủ,
toàn diện, mà cho đến nay dường như chưa có sự chuyển dịch lớn nào trên phương
diện chính sách pháp luật hướng tới kỷ nguyên 4.0 ở nước ta.
Giáo dục và đào tạo là
lĩnh vực chịu tác động mạnh mẽ của CMCN 4.0 nhưng cũng được coi là có thể tác động
ngược lại. Nếu hoạch định được chiến lược, chính sách đúng đắn, đi trước một bước
giáo dục và đào tạo sẽ trở thành chìa khóa, động lực to lớn cho sự phát triển
hiệu quả, bền vững[4]
đồng thời tận dụng lợi thế CMCN 4.0 và tác động trở lại dẫn dắt sự phát triển của
xã hội.
Tuy nhiên, ngoài một số
đơn vị giáo dục tư thục, cơ sở giáo dục quốc tế, liên kết quốc tế có những chuyển
dịch[5]
theo hướng ứng dụng công nghệ, chương trình hiện đại trong hoạt động giáo dục
và đào tạo, đa phần các trường đại học công lập, kể cả những đại học lớn của đất
nước, những chuyển biến tiệm cận CMCN 4.0 vẫn khá chậm dù ngày 4/5/2017 Thủ tướng
Chính phủ đã khẩn trương ban hành chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng
lực tiếp cận CMCN 4.0 và sau đó một ngày, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ký công văn số
1891/BGDĐT-GDĐH gửi các trường đại học, cao đẳng về nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân
lực có khả năng thích ứng với cuộc CMCN 4.0.[6]
Hiện có quan điểm cho rằng,
đào tạo luật là “yên ả nhất” và ít chịu ảnh hưởng nhất từ CMCN 4.0 trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo. Theo đó, CMCN 4.0 chỉ tác động đến các lĩnh vực chuyên đào
tạo về kỹ thuật, công nghệ, kỹ sư, khoa học về vật liệu….[7] .
Tuy nhiên, mới đây, ở Hoa Kỳ, một AI (trí tuệ nhân tạo) đã chiến thắng 20 luật
sư hàng đầu của nước Mỹ trong việc phát hiện những sai sót của hợp đồng.[8]
Điều này cho thấy nếu không có những thay đổi để thích ứng, giới luật và đào tạo
luật sẽ “không thể ngồi yên” trong bối cảnh CMCN 4.0 này.
Bài viết này, trên cơ sở
nhận thức thực trạng đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay cùng với những tìm hiểu,
nghiên cứu về nội dung của CMCN 4.0, tác giả lựa chọn phân tích, đánh giá những
xu hướng nghề luật, những thay đổi mang tính cách mạng do CMCN 4.0 mang lại
trong hình thức, phương pháp, chương trình giảng dạy, quản trị đại học nói
chung và lĩnh vực đào tạo luật nói riêng để từ đó nhận diện những yêu cầu,
thách thức và đưa ra những khuyến nghị phù hợp để sản phẩm đào tạo và hệ thống
đào tạo luật của Việt Nam từng bước tận dụng thời cơ và thích ứng với yêu cầu,
bối cảnh của CMCN 4.0.
2. Thực trạng đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay trước thách thức của CMCN
4.0
Khác với các cuộc cách mạng
trước đó, CMCN 4.0 gắn liền với: 1) trí
tuệ nhân tạo (AI); 2) người máy thông minh (smart robots), 3) internet vạn vật
(IoT), điện toán đám mây (cloud computing) với khả năng chứa đựng dữ liệu cực lớn
(big data), khả năng kết nối và thuận tiện khi sử dụng; 4) công nghệ và vật liệu
tiên tiến; 5) nền kinh tế chia sẻ…[9]
Có nhà khoa học đã ví
von rằng là nếu như các cuộc cách mạng trước đó đã biến người thành máy, thì CMCN 4.0 đã biến máy móc từng bước trở thành người với trí tuệ và khả năng thay thế
con người trong những công việc liên quan đến trí óc.[10]
Không chỉ thế, với khả năng kết nối thực ảo, internet vạn vật, dữ liệu cực lớn,
kinh tế chia sẻ, công nghệ in 3D,… đã làm cho nhiều mô hình, trong đó có mô
hình quản trị, đào tạo đại học cũ không còn phù hợp. Đó không đơn thuần cải tiến
mà là cuộc cách mạng và bất kỳ cuộc cách mạng nào đều dẫn đến những chuyển biến
mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thế giới hiện nay đã có
những mô hình đào tạo mà trước đây dường như ít ai có thể hình dung ra được. Chẳng
hạn như mô hình đào tạo mới của Minerva mà nhiều chuyên gia cho là khá tương
thích với kỷ nguyên 4.0.[11]
Theo mô hình Minerva,
trường đại học tập trung “dạy học tích cực”
trên cơ sở các “khóa học trực tuyến”. Lớp học thường chỉ ở mức 15-19 sinh
viên và các môn học thực hiện qua videos, yêu cầu về sự tương tác giữa giáo viên và sinh viên rất cao. Trường sẽ cung cấp
các tài liệu trực tuyến và hệ thống các khái niệm để người học phải chuẩn bị
trước khi vào học môn tương ứng. Giảng viên thay vì là người giảng bài giờ trở
thành người giải thích, hướng dẫn thông qua tương tác với người học. Các môn học
đại cương thường được thiết kế học trực tuyến là chủ yếu để đảm bảo tiết kiệm
kinh phí vì những tài liệu, học liệu đã có sẵn và người học không phải trả cả
nhiều tiền để phải học những kiến thức mà họ hoàn toàn có thể tự học với những
tài liệu miễn phí được cung cấp tràn ngập trên internet hoặc trên tài nguyên số.
Điều này giúp nhà trường giảm được chi phí, tăng sức cạnh tranh, tiết kiệm thời
gian thực tế cho người học. Vấn đề chỉ là tổ chức thực hiện các phương pháp,
cách thức tiến hành kiểm tra, đánh giá đảm bảo chất lượng. Chương trình đào tạo
được thiết kế nhiều thời lượng học thực tế tại các doanh nghiệp, tổ chức, thị
trường…nhằm giảm kinh phí, đáp ứng yêu cầu của người học, nhu cầu xã hội, đồng
thời cơ sở đào tạo không phải lo lắng quá nhiều về trang bị cơ sở vật chất cho
người học, tăng tính hấp dẫn, tính thực tiễn cho kiến thức kỹ năng của người học
khi hoàn thành khóa học. Trường cũng không
có hệ thống giáo viên cơ hữu vì họ coi cơ hữu là căn bệnh của các trường đại học truyền thống. Thư viện cũng
không cần to, nhiều phòng… mà quan trọng là hệ thống tư liệu, học liệu điện tử
phong phú, đầy đủ, chuẩn quốc tế để người học có thể học ở bất cứ đâu, khi nào
cần. Điều này giúp cho trường có thể tiết kiệm được kinh phí xây dựng, duy trì
hoạt động của thư viện, trả lương cho đội ngũ cán bộ thư viện, lưu trữ sách và
bảo quản tài liệu, sách. Thậm chí, trường đại học theo mô hình Minerva cũng
không cần thiết phải có trụ sở với cơ sở vật chất hoành tráng, khu vui chơi, kí
túc xá, giảng đường… như các trường đại học truyền thống. Điều này giúp giảm tối
đa kinh chính, chi phí vận hành nhằm gia tăng sức cạnh tranh của trường trong bối
cảnh cắt giảm chi phí, cạnh tranh khốc liệt không chỉ trong phạm vi quốc gia mà
trên phạm vi toàn cầu trong bối cảnh giáo dục mở thời kỳ 4.0.[12]
Mô hình đại học Minerva
còn khá lạ lẫm với bối cảnh đại học Việt Nam hiện nay, trong đó có đào tạo luật.
Mô hình quản trị, chương
trình, phương thức tổ chức đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay cơ bản không có nhiều
thay đổi lớn so với những năm trước đây và chưa thích ứng tốt với kỷ nguyên
4.0. Các cơ sở đào tạo luật nói riêng và hệ thống giáo dục nói chung đang đứng
trước thực tế là sẽ bị cắt giảm kinh phí từ ngân sách nhà nước như là một xu hướng
tất yếu, sự cạnh tranh khốc liệt của các trường tư, hệ thống giáo dục quốc tế,
thị trường lao động được đào tạo bài bản ở các quốc gia phát triển. Hiện nay,
các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam đang còn chưa nhận thức đúng và đầy đủ về vấn
đề tự chủ và trên thực tế chưa có một cơ sở đào tạo luật nào ở nước ta tiên
phong thực hiện thí điểm tự chủ đại học một cách đầy đủ.
Theo số liệu được công bố
cho thấy, đến cuối năm 2015, cả nước đã có hơn 30 cơ sở đào tạo luật ở bậc đại
học; 13 cơ sở đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ
luật (trong đó có 8 cơ sở đào tạo tiến sĩ).[13] Đến
thời điểm cuối năm 2017, dù chưa có thống kê chính thức, nhưng số lượng cơ sở
đào tạo luật đã lớn hơn con số trên khá nhiều.
Ở hầu hết các cơ sở đào
tạo luật hiện nay, chương trình đào tạo luật cơ bản vẫn được thiết kế theo niên
chế (cũ) hoặc theo tín chỉ (mới). Ở những cơ sở đào tạo đã chuyển đổi chương
trình theo hình thức tín chỉ thì vẫn còn rất nhiều bất cập. Ở một số nơi, sinh
viên vẫn còn bị hạn chế trong việc lựa chọn giảng viên, các lớp tín chỉ ở nhiều
cơ sở được tổ chức chưa tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về giờ lý thuyết, giờ
thực hành, thảo luận, tự học…, số lượng sinh viên trong một lớp môn học nhiều
nơi còn vượt quá số lượng quy định…
Ở nhiều đơn vị đào tạo
luật hiện nay, hình thức truyền thụ kiến thức cơ bản vẫn là giáo viên lên các
giảng đường lớn để thuyết giảng, người học ngồi nghe, ghi chép và về nhà hoặc
lên thư viện đọc tài liệu. Thuyết giảng vẫn là phương pháp truyền đạt chủ đạo
và người dạy chủ yếu dạy về các lý thuyết, đôi khi có những bài tập mẫu cho
sinh viên, học viên tập phân tích. Cũng có những giảng viên am hiểu công nghệ
thông tin đã ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, nhưng chủ yếu các giảng
viên vẫn dùng các máy trình chiếu bài giảng (slides) để giảng bài cho sinh
viên. Nhiều giảng viên còn hạn chế trong kỹ thuật sử dụng máy chiếu, công nghệ
thông tin và trình bày slides một cách khoa học. Hệ thống slides, bài giảng điện
tử chuẩn của nhiều cơ sở đào tạo luật vẫn còn hạn chế và hầu như không được
cung cấp đầy đủ cho sinh viên, học viên đọc trước để làm nền tảng cho những
trao đổi, thảo luận trên các giờ thảo luận. Sự tương tác giữa người học và người
dạy phụ thuộc nhiều vào phong cách giảng dạy của từng giảng viên. Rất ít trường,
đơn vị đào tạo luật sử dụng các bài giảng điện tử bằng videos trực tuyến có sự
tương tác thực để thay thế cho các bài giảng thuyết giảng thông thường, nếu có
chủ yếu là nỗ lực cá nhân của một số giảng viên. Một số lượng không nhiều các
giảng viên luật ở Việt Nam thiết lập các trang mạng/blog cá nhân để tương tác với
người học, hỗ trợ, cung cấp tài liệu và làm cho hoạt động giảng dạy được hiệu
quả hơn. Việc sử dụng tài liệu, sách, giáo trình điện tử thông qua các phần mềm,
tài liệu số, google scholar thực tế vẫn là những khó khăn của không ít các giảng
viên luật hiện nay…
Ngoài những khó khăn về
năng lực sử dụng công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, giảng viên ở nhiều
cơ sở đào tạo còn hạn chế trong sử dụng ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh. Hạn
chế này thường đi kèm với chất lượng của giảng viên, bởi theo yêu cầu mới, giảng
viên cần có khả năng hội nhập và quốc tế hóa rất cao. Sẽ khó sử dụng được công
nghệ, tài liệu trực tuyến, tiếp cận với thế giới hiện đại nếu giảng viên luật
không thông thạo ít nhất một ngoại ngữ, đặc biệt là sử dụng thành thạo tiếng
Anh. Nếu không sử dụng được tiếng Anh, giảng viên sẽ gặp khó khăn khi tiếp cận
với tri thức tiến bộ của nhân loại trong kỷ nguyên internet kết nối vạn vật,
công nghệ số, phần mềm quản trị đại học… chủ yếu được viết bằng tiếng Anh và
đào tạo ra những luật gia có đẳng cấp, trình độ quốc tế trong bối cảnh thế giới
đang phẳng ra và cuộc cạnh tranh trên thị trường lao động và cung ứng dịch vụ
pháp lý không chỉ đến từ các trường luật, luật gia trong nước mà chủ yếu đến từ
các trường luật, luật gia quốc tế. Chất lượng đào tạo luật vì thế cũng trở nên
kém cạnh tranh hơn so với các trường luật ở các nước tiên tiến.
Hạn chế của giảng viên
còn ở chỗ không nhiều giảng viên có được kiến thức thực tiễn bằng hoạt động thực
nghiệm, thực tế của chính mình. Đa phần các giảng viên luật là viên chức của
đơn vị sự nghiệp công lập nên còn bị hạn chế ở một số hoạt động khác liên quan
đến rèn rũa kỹ năng thực tiễn của nghề nghiệp để có thể truyền đạt tốt nhất cho
sinh viên, người học kiến thức, kỹ năng và những gì kiểm chứng được và chắt lọc
được từ thực tiễn. Có lẽ cũng vì thế mà các giờ học thường hàn lâm và người sử
dụng lao động thường cho rằng sinh viên ra trường không có nhiều kiến thức, kỹ
năng thực tế.
Chương trình đào tạo luật
hiện nay của Việt Nam chưa cho tạo điều kiện tối đa cho sự linh hoạt, uyển chuyển
khi cần thay đổi. Quản lý nhà nước về khung, chương trình còn khá cứng theo
khung, các trường chưa thực sự được tự quyết trong điều chỉnh môn học, học phần
giữa các khối kiến thức của chương trình. Sinh viên về lý thuyết có thể học 3,5
năm để có được tấm bằng cử nhân luật, nhưng thực tế họ phải học 4 năm hoặc hơn.
Nhiều môn học đại cương trên thực tế có thể giảng dạy bằng hình thức trực tuyến
với tài liệu vô cùng phong phú và miễn phí trên internet… nhưng sinh viên nhiều
trường, đơn vị đào tạo luật vẫn phải lên lớp truyền thống để tiếp thu kiến thức.
Đây là một trong những yếu tố làm giảm năng lực cạnh tranh của đào tạo luật Việt
Nam so với nhiều cơ sở đào tạo luật ở các quốc gia tiên tiến.
Mặt khác, các chương
trình đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay bị chuyên sâu hóa rất cao, không chú trọng
đến đào tạo liên ngành, xuyên ngành, đào tạo những kiến thức mới về công nghệ,
kiến thức cập nhật…. Đây là một trong những điểm đi ngược lại xu thế của thế giới
trong bối cảnh CMCN 4.0. Các chương trình hầu như chia làm nhiều khối kiến thức,
trong đó có khối kiến thức chung, khối kiến thức ngành, khối kiến thức bổ trợ …
Khối kiến thức chung chủ yếu là các môn học đại cương theo quy định, còn lại là
khối kiến thức ngành, chuyên sâu cho ngành. Trong bối cảnh CMCN 4.0, những luật
gia không thể không có kiến thức về công nghệ, kỹ năng sử dụng các công nghệ phục
vụ công việc ở kỷ nguyên 4.0. Những tri thức, kỹ năng về không gian mạng, công
nghệ thông tin, công nghệ số, phương pháp tiếp cận, làm việc với thế giới ảo, sử
dụng dữ liệu trên mạng, làm việc với trí tuệ nhân tạo, khai thác dữ liệu…. chưa
được chú trọng thiết kế vào các chương trình đào tạo luật ở các trường luật ở
Việt Nam hiện nay…. Việc thiết kế các môn này cũng gặp nhiều khó khăn khi chia
chương trình thành các khối kiến thức theo hướng chuyên sâu dần vào ngành,
chuyên ngành nhất định. Các môn học mang tính liên ngành, xuyên ngành chưa được
chú trọng đầu tư.[14]
Trong hoạt động giảng dạy
luật hiện nay ở Việt Nam luôn những vấn đề liên quan đến liên kết đào tạo với nước
ngoài, quốc tế hóa đào tạo luật, chia sẻ của các học giả nước ngoài, trao đổi
thỉnh giảng của các giảng viên nước ngoài chưa thật phát triển trong các chương trình đào tạo luật
ở nước. Số lượng giảng viên quốc tế tham gia thỉnh giảng cho các chương trình
đào tạo luật thông thường của các đơn vị đào tạo luật còn rất khiêm tốn (nếu
không phải là chương trình liên kết, quốc tế). Đây là hạn chế lớn đối với việc
quốc tế hóa chất lượng đào tạo trong bối cảnh hoạt động ngành nghề của luật gia
trong thời gian tới sẽ không còn bị giới hạn bởi phạm vi quốc gia, lãnh thổ và
cạnh tranh công việc từ phía các luật gia đào tạo ở các nước khác đang trở nên
vô cùng cấp thiết thông qua các hoạt động tư vấn trực tuyến, internet kết nối vạn
vật…
Chương trình đào tạo luật
ở Việt Nam có tính hội nhập chưa cao. Các môn học nội luật còn chiếm tỉ trọng lớn,
trong đó các môn học mang tính quốc tế như thương mại quốc tế, tư pháp quốc tế,
luật so sánh… vẫn còn chiếm tỉ trọng khiêm tốn. Trong nội dung các môn nội luật
cũng có rất ít so sánh với nước ngoài dù rằng trong xã hội mới, sự tương tác với
thế giới, giao lưu dân sự giữa các quốc gia không còn là trở ngại. Điều này ít
nhiều làm giảm năng lực cạnh tranh của các luật gia được đào tạo trong nước với
đào tạo ở nước ngoài, đặc biệt là các luật gia được đào tạo từ các cơ sở giáo dục
có uy tín trên thế giới…
Mối tương tác giữa đại học
và thị trường lao động cũng là một vấn đề của các cơ sở đào tạo luật hiện nay.
Các chương trình đào tạo đều có thiết kế các khóa thực tập, thực tế tại doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức..., nhưng tính hiệu quả và thiết thực không cao. Nhiều
sinh viên thừa nhận là có đến các cơ sở
thực tập nhưng đôi khi là “cho có” hoặc chỉ “cưỡi ngựa xem hoa”... Điều này ít
nhiều ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, kiến thức, kỹ năng thực tế của sinh
viên. Chương trình đào tạo có thiết kế các môn đào tạo kỹ năng, tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân khác nhau các môn này phần nhiều do các giảng viên của chính
cơ sở đào tạo giảng dạy, dù họ có hạn chế trong tiếp cận thực tiễn và kỹ năng
hành nghề.
Trình độ tin học, kỹ
năng ứng dụng công nghệ, khả năng có được các thiết bị công nghệ kết nối
internet (laptops, máy tính bảng, điện thoại thông minh…), năng lực ngoại ngữ của
sinh viên chưa đồng đều. Đây cũng là thực trạng chung của nền giáo dục. Rất khó
có thể ứng dụng công nghệ khi rất nhiều sinh viên không thể trang bị cho mình
những thiết bị đó trong khi nhà trường, với ngân sách ngày càng eo hẹp thì khả
năng trang bị cho sinh viên, người học những thiết bị hiện đại bị hạn chế. Sinh
viên không sử dụng tốt ngoại ngữ sẽ khó sử dụng công nghệ, tìm kiếm, phân tích
tài liệu trực tuyến, tài liệu mở để trở thành những luật gia giỏi sẵn sàng tham
gia vào thị trường lao động toàn cầu, tư vấn luật pháp cho các khách hàng, dịch
vụ vượt ra ngoài biên giới quốc gia.
Cơ sở vật chất hiện nay ở
các cơ sở đào tạo luật vẫn còn hạn chế. Hệ thống máy tính có kết nối internet,
cung cấp mạng WIFI chưa đồng đều ở các đơn vị đào tạo. Các lớp, phòng học thông
minh trên thực tế ở một số đơn vị đã được trang bị[15] nhưng
nhiều giảng viên không biết sử dụng, ngại dùng hoặc không cần dùng bởi lẽ giảng
dạy truyền thống khi đang còn là phương pháp truyền thụ kiến thức phổ biến thì
chưa cần đến các thiết bị đó.
Thư viện các trường đại
học, đơn vị, cơ sở đào tạo luật đang chú trọng đến số lượng đầu sách, tài liệu
và chỗ ngồi, phòng đọc… mà chưa quan tâm ở mức cần thiết đến “thư viện số” và
“quốc tế hóa nguồn tài liệu”, quản trị thư viện số. Đại học Quốc gia Hà Nội và
một số cơ sở đào tạo quan tâm đến thư viện số, tuy nhiên, tài liệu thuộc lĩnh vực
luật hoặc liên quan còn khiêm tốn, tài liệu luật nước ngoài còn ít. Giảng viên,
sinh viên luật vẫn chưa sử dụng hiệu quả nguồn tài liệu này bởi nhiều nguyên
nhân như: không có thiết bị phù hợp, hệ thống quản trị chưa tốt, tài liệu chưa
phong phú… Trên phương diện quản lý, các cơ quan quản lý đào tạo đại học vẫn
chú trọng đến “diện tích” và số đầu sách hiện có mà chưa có chính sách khuyến
khích phát triển “tài nguyên số”, “thư viện số”…[16]
Trong khi đó, rất nhiều nước trên thế giới đã chuyển sang mô hình thư viện số để
vừa giảm tải mang vác nặng cho sinh viên trong bối cảnh càng ngày càng cần nhiều
tài liệu cho học tập, nghiên cứu, phân tích tài liệu, giảm chi phí tài chính
mua tài liệu và các sách, giáo trình kiểu cũ đã trở nên lỗi thời.[17]
Tài liệu của thư viện ở
nhiều trường còn chưa được phong phú. Tài liệu chủ yếu là các sách, giáo trình,
tạp chí và văn bản luật. Thực tế cho thấy, để có được một luật gia có kiến thức,
chuyên môn tốt cần nhiều những tài liệu về tình huống pháp lý, bản án, các quyết
định, các loại hợp đồng mẫu… được cập nhật thường xuyên. Hiện nay, ở rất nhiều
các thư viện luật, tài liệu chủ yếu tồn tại dưới dạng bản cứng nên rất nhanh lạc
hậu, đôi khi bị trái với những thay đổi, bổ sung của pháp luật hiện hành. Các
tài liệu nếu được số hóa thì cũng là bản chụp các tài liệu hiện có và điều này
chỉ giúp dễ hơn trong tiếp cận, lưu trữ chứ không làm cho nguồn tài liệu trở
nên hữu ích, cập nhật hơn trong bối cảnh hiện nay.
Quản trị đại học hiện
nay của Việt Nam cũng chậm thích ứng với công nghệ số và bối cảnh của kỷ nguyên
4.0. Các cơ sở đào tạo luật có bộ máy tổ chức khá cồng kềnh, nhiều phòng ban,
nhiều số lượng chuyên viên hành chính. Hệ thống với nhiều phòng, ban, tổ chức…
không còn phù hợp khi ứng dụng công nghệ số, quản lý phần mềm thông minh trong
xã hội internet kết nối vạn vật… Quản lý về chuyên môn theo các bộ môn, khoa
truyền thống chưa hỗ trợ tốt cho việc tạo tính liên kết, liên thông về học thuật
và đâu đó làm chậm thay đổi để thích ứng với các chương trình, học phần mới. Hiện
nay, một số đại học đã phát triển các trung tâm nghiên cứu gắn với các lĩnh vực
đào tạo và tăng tính liên ngành, xuyên ngành.
Tuy nhiên, do nguồn nhân lực và tài chính cho nghiên cứu phục vụ phát
triển các học phần hiện đại bị hạn chế nên các viện, trung tâm hiện nay chưa
phát huy hiệu quả như mong đợi. Luật học ngày càng cần tính hệ thống, sự biệt lập
và chỉ chuyên sâu một lĩnh vực sẽ không đào tạo ra các luật gia bối cảnh 4.0 và
cùng với đó là sự cục bộ, chậm thay đổi, kém linh hoạt, gia tăng chi phí trong
quá trình đào tạo.
Quản lý nhà nước về đào
tạo luật cũng còn chưa tạo ra sự linh hoạt cần thiết. Việc xây dựng khung cứng
cho mã ngành, chương trình đào tạo, quy định về các điều kiện sửa đổi chương
trình đào tạo, quy định về công tác nhân sự, tổ chức quản lý, kiểm định chất lượng
giáo dục, thi cử… chưa khuyến khích sự đổi mới, linh hoạt cho cơ sở đào tạo
trong việc chuyển đổi, đổi mới mô hình quản trị đại học, chương trình, ngành
đào tạo, tuyển dụng và định vị nguồn đầu vào phù hợp. Các môn học mới, các
phương thức đào tạo mới… cần có nhiều bước để xin phép mới có thể yên tâm áp dụng
trong đào tạo đại học mà không bị xử lý.
Sự đổi mới về đào tạo luật
còn xuất phát từ những thay đổi về nghề luật trong bối cảnh mới. Nghề luật đang
đứng trước những thay đổi về yêu cầu, nhu cầu và bối cảnh xã hội. Trong thời
gian tới, với những gì đã nhận thức được về nội dung của CMCN 4.0, có thể thấy,
những yêu cầu mới và những thay đổi về nghề luật, theo tác giả, cơ bản tập
trung chủ yếu vào mấy điểm chính sau:
-
Đào
tạo luật sẽ mang tính liên ngành và xuyên ngành. Để có thể làm việc tốt trong
môi trường mới, người thực hành luật không chỉ biết có luật pháp mà còn phải nắm
vững kiến thức và kỹ năng về công nghệ, thông tin, trí tuệ nhân tạo, giao dịch
điện tử, syber law, chữ ký số, sở hữu trí tuệ ... Thật khó hình dung nổi sẽ như
thế nào, nếu luật gia thực hành trong tương lai không biết tư vấn pháp luật
trên không gian số, không nắm được công nghệ để hiểu được các giao dịch điện tử…Bên
cạnh đó, để thực hiện các tư vấn, họ cũng phải sử dụng mạng internet, dữ liệu số,
quản trị mạng và các thiết bị điện tử khác…
-
Luật
gia của thời đại mới cũng cần phải có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ tiếng
Anh. Những máy tính, robots thông minh có thể hỗ trợ các luật gia hiểu ngôn ngữ
khác, nhưng nếu có được ngoại ngữ tiếng Anh, họ sẽ thực hiện một cách chuyên
nghiệp, gây dựng niềm tin với khách hàng và đối tác của mình, có khả năng tư vấn
khách hàng nhanh nhất và chất lượng nhất có thể thông qua nền tảng số, internet
… mà ở đó không có khái niệm biên giới, lãnh thổ. Vì vậy, một trong những năng
lực cần có là luật gia tới đây sẽ phải làm việc xuyên biên giới, với đa dạng về
đối tác, loại hình và nội dung dịch vụ cung ứng.
-
Luật
gia của thời gian tới sẽ là luật gia toàn cầu. Không cần biết luật gia đó được
đào tạo ở đâu, anh ta phải có khả năng tư vấn cho mọi đối tác, hiểu biết luật
không chỉ của quốc gia mình mà còn cả các quốc gia khác. Thẩm phán, công tố
viên… cũng sẽ cần có kiến thức rộng, năng lực sử dụng ngoại ngữ và năng lực hội
nhập quốc tế cao. Vì vậy, giới luật sẽ phải cạnh tranh toàn cầu chứ không chỉ
trong nước. Họ có thể ngồi ở Việt Nam mà tư vấn cho các doanh nghiệp nước ngoài
ở nước ngoài và mọi hoạt động được thực hiện qua internet và máy tính.
-
Nghề
giảng viên luật chắc chắn sẽ phải cạnh tranh với giảng viên ngoại quốc với
trình độ và năng lực ngoại ngữ hơn hẳn. Vì vậy, nếu không có ngoại ngữ, không
quốc tế hóa, không khai phóng về tư duy thì khó cạnh tranh. Tuy nhiên, việc am
hiểu pháp luật Việt Nam và biết được tiếng Việt cũng sẽ là một lợi thế khi thực
hiện các hoạt động pháp lý, giảng dạy với người Việt.
-
Luật
gia tương lai cần phải có kiến thức đa dạng, tư duy khai phóng, linh hoạt, bởi
việc tư vấn đơn giản, hỗ trợ thủ tục, dịch vụ đơn giản… sẽ không còn là công việc
của riêng luật sư, luật gia mà đôi khi các AT với dữ liệu khổng lồ cũng hoàn
toàn có khả năng phân tích và đưa ra những tư vấn kém phức tạp.
-
Luật
gia ngày nay rõ ràng cũng cần có đạo đức nghề luật nhiều hơn. Bởi lẽ, khi xã hội
thay đổi liên tục, khoảng trống pháp luật lộ ra cũng sẽ nhiều hơn, cùng với sự
hỗ trợ của internet, AT… việc thực hiện các hành vi phi đạo đức sẽ trở nên dễ
dàng. Trong bối cảnh đó, xã hội cũng yêu cầu luật gia phải có đạo đức nghề nghiệp
cao hơn. Những luật gia có đạo đức nghề nghiệp cao sẽ được tin dùng hơn.
-
Luật
gia trong thời gian tới càng cần phải có tư duy đa chiều, đa diện, thích ứng
nhanh với những thanh đổi ngày càng nhanh cần có tư duy phản biện, giáo dục
khai phóng, đa diện. Bởi nếu không có tư duy như thế, anh ta sẽ phải tranh chấp
thị phần công việc với người máy thông minh, khó thay đổi linh hoạt trong xã hội
nhiều thay đổi. Luật gia trong kỷ nguyên mới lại càng phải nắm vững kiến thức nền
tảng, hiểu được quy luật vận động của pháp luật, có khả năng sáng tạo, thích ứng
với sự thay đổi của cuộc sống hiện đại.
3. Một số khuyến nghị đổi mới đào tạo luật trong bối cảnh CMCN 4.0
Trên cơ sở những phân
tích trên và từ những quan điểm cá nhân về giáo dục đại học, tác giả đề xuất một
số khuyến nghị hướng tới đổi mới đào tạo luật ở Việt Nam trong kỷ nguyên 4.0.
-
Thứ nhất, trong bối cảnh mới các trường luật cũng cần
áp dụng phương thức dạy trực tuyến tích cực
đối với các môn học trong chương trình đào tạo ở chừng mực nhất định, đặc biệt
là các môn học thiên về cung cấp kiến thức thuần túy, cơ bản. Tất nhiên, trực
tuyến không có nghĩa là học qua videos mà phải có sự tương tác giữa giáo viên
và người học – sự tương tác giữa thực và ảo hay phương pháp dạy “trực tuyến tích cực”. Khuyến nghị này
phù hợp với bối cảnh công nghệ hiện đại, dữ liệu số khổng lồ, internet kết nối
vạn vật… của thời đại CMCN 4.0. và không khó để thực hiện. Đối với một số môn học,
giảng viên sẽ không phải lên lớp để chỉ thuyết giảng, thay vào đó, họ ngồi ở
nhà và có thể tương tác bình thường với sinh viên trong các giờ dạy trực tuyến.
Hình thức học tập này nếu được áp dụng sẽ giảm chi phí xã hội, cho cả người dạy,
người học và đơn vị đào tạo, thời gian đào tạo góp phần gia tăng tính cạnh
tranh của cơ sở đào tạo. Hình thức học tập trực tuyến tích cực có thể áp dụng cho
các giờ giảng lý thuyết đối với một số môn học cấp đại cương, còn đối với các
giờ thảo luận vẫn có thể tổ chức trên lớp thực kết hợp với lớp ảo để người học
có thể thảo luận, trao đổi hoặc trình bày quan điểm trong không gian thật. Mô
hình này không chỉ đã được áp dụng ở một số trường ở Việt Nam mà ở nhiều nước
trên thế giới.[18]
-
Thứ hai,
chương trình đào tạo luật phải được bổ sung các môn học có mục tiêu cung cấp
tri thức, kỹ năng cho người học về công nghệ số, người máy thông minh, không
gian mạng, tư liệu điện tử, an ninh mạng, trí tuệ nhân tạo, ứng dụng công nghệ
thông tin, tài nguyên số, sở hữu trí tuệ… vào hoạt động thực tiễn, đời sống
pháp lý.
-
Thứ ba, khi thiết kế chương trình và môn học phải đảm
bảo điều kiện cho người học tương tác với thực tiễn công việc và gắn với nhu cầu
xã hội.[19]
Giảng dạy không chỉ là việc của các trường đại học mà còn là của người sử dụng
lao động (các doanh nghiệp, công ty luật, cơ quan, tổ chức…) đều có thể tham
gia vào quá trình đào tạo với mục đích tạo ra những sản phẩm phù hợp với yêu cầu
thực tiễn. Đào tạo hàn lâm trong lĩnh vực pháp lý cần gắn chặt chẽ với đào tạo
trên thực tiễn. Người học cần được thực nghiệm chứ không phải là nghe mô tả về
nó.[20]
Trước hết, các trường, cơ sở đào tạo luật cần hợp tác chặt chẽ với các tổ chức,
cơ quan, doanh nghiệp uy tín trong lĩnh vực luật để xây dựng chương trình môn học,
kiểm định chất lượng và đào tạo thực tế cho các cơ sở, đơn vị của mình để gia
tăng năng lực cạnh tranh.
-
Thứ tư, chương trình đào tạo cần tăng dung lượng các
môn học thuộc về lĩnh vực liên quan nhiều đến thương mại, tư pháp quốc tế… để
đào tạo các luật gia có kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp trong bối cảnh
giới hạn phạm vi lãnh thổ quốc gia sẽ không còn nhiều ý nghĩa, công việc, dịch
vụ pháp lý sẽ thường xuyên vượt ra khỏi biên giới quốc gia và thực hiện nhiều
trên không gian internet vốn không có giới hạn không gian và thời gian.
- Thứ năm, trong bối cảnh CMCN 4.0, những thay đổi mạnh mẽ của đời sống
xã hội sẽ tạo ra nhiều những khoảng trống pháp lý, các điều kiện để xâm hại đời
tư, xâm hại đến trật tự xã hội, an ninh… trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết khi
pháp luật sẽ khó thích ứng kịp với những thay đổi. Việc sử dụng người máy thông
minh, trí tuệ nhân tạo… đôi khi cũng tạo ra những tổn hại không chỉ cho một
nhóm người mà rộng hơn là cả một xã hội, thậm chí cho nhân loại nói chung.
Trong điều kiện đó, đạo đức nghề nghiệp của luật gia trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết. Vì vậy, những môn học chuyên sâu về đạo đức nghề luật nói chung và một
số lĩnh vực đặc thù như đạo đức luật sư, công chứng, thẩm phán… cần phải được
chú trọng mà trước hết là trong đào tạo. Bởi nếu không có đạo đức nghề nghiệp,
xã hội sẽ dần mất niềm tin vào giới luật và tiếp đó là những tổn hại lớn hơn
cho xã hội.
- Thứ sáu, đào tạo tiếng Anh pháp lý trở nên không kém phần quan trọng.
Trong bối cảnh mới, không gian, phạm vi hoạt động của luật gia có thể xuyên quốc
gia, trên không gian mạng… nên sức mạnh cạnh tranh sẽ mất đi nếu không có khả
năng sử dụng thành thạo tiếng Anh, đặc biệt là tiếng Anh pháp lý.
- Thứ bảy, cần thay đổi các chương trình đào tạo, khuyến khích chia sẻ
tín chỉ, tiếp nhận công nghệ giảng dạy trực tuyến và tài liệu giảng dạy trực
tuyến của các cơ sở đào tạo luật uy tín của các quốc gia có nền giáo dục hiện đại
để nâng cao chất lượng đào tạo. Bên cạnh đó cần mở rộng nguồn giảng viên quốc tế
để tham gia vào quá trình đào tạo luật ở Việt Nam.
- Thứ tám, phương pháp giảng dạy cần phải có những điều chỉnh. Với
nguồn tài liệu ngày càng phong phú, đa dạng, dễ tiếp cận, giảng viên sẽ không
còn nhiều ý nghĩa nếu chỉ thuyết giảng. Vai trò hướng dẫn, giải thích sẽ trở
nên quan trọng hơn trong bối cảnh mới. Dạy học phải có sự tương tác chặt chẽ với
người học và trong điều kiện hiện nay việc đó không hề khó thực hiện.
- Thứ chín, kiến thức hàn lâm vẫn rất quan trọng, nhưng cần tập trung
vào những kiến thức nền tảng, giảng dạy nguyên tắc, quy luật vận hành, tư
duy... Xã hội kỷ nguyên 4.0 sẽ có những thay đổi rất nhanh, vì vậy, việc tạo ra
các luật gia có năng lực nhận biết, phát hiện quy luật, khai phóng về tư duy,
linh hoạt… sẽ tốt hơn là đào tạo ra luật gia chỉ viết vận dụng văn bản, quy phạm
hiện hành.
- Thứ mười, tự chủ đại học là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay
ở Việt Nam. Tự chủ sẽ không chỉ dừng lại ở vấn đề tài chính mà sẽ tự chủ cả về
công tác cán bộ, chiến lược phát triển, chương trình đào tạo, tuyển sinh… Cùng
với tự chủ đại học, các xu hướng và điều kiện CMCN 4.0 mang lại sẽ quyết định
mô hình quản trị đại học hiện đại.
CMCN 4.0 là cơ hội để những
trường đại học không có bề dày truyền thống có thể tận dụng trong cuộc cạnh
tranh khốc liệt hiện nay nếu biết ứng dụng mô hình quản trị đại học hiệu quả,
hiện đại, chất lượng và cùng với đó là giảm chi phí đào tạo cho người học để
gia tăng năng lực cạnh tranh. Do đó, trường luật trong bối cảnh 4.0 không nhất
thiết phải có quá nhiều cán bộ quản lý bởi đã có hệ thống dữ liệu khổng lồ, tài
nguyên số, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào quản trị đại học, các
phần mềm quản trị đại học…. Việc ứng dụng các phần mềm quản lý thì chỉ cần
không nhiều chuyên viên thạo công nghệ, tiếng Anh để hỗ trợ quản lý. Công nghệ
chữ ký điện tử, ký duyệt trên phần mềm sẽ giảm đi khá nhiều đội ngũ cán bộ quản
lý cấp phòng, ban. Trường luật có thể thuê những công ty thiết kế phần mềm để
quản lý đào tạo, sinh viên, thư viện, cơ sở vật chất…. và một số không nhiều những
cán bộ có chuyên môn về quản trị hiện đại, sử dụng công nghệ hiện đại và năng lực
ngoại ngữ tốt. Các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức xã hội khác sẽ
vận hành theo xu hướng mới phù hợp với xu thế tự chủ đại học, quản trị bằng
công nghệ…
- Thứ mười một, quản lý đào tạo cần có những chuyển dịch linh hoạt
hơn. Quản lý nhà nước theo Danh mục ngành nghề đào tạo như hiện nay chưa cho
phép liên thông liên kết và khuyến khích xây dựng các chương trình xuyên ngành
trong đào tạo luật gia 4.0. Quy định về mã ngành, chuyên ngành hiện nay cần có
sự điều chỉnh để cho phép sự phát triển nhanh, thay đổi kịp thời trong xây dựng
chương trình. Những quy định về quy mô, điều kiện cơ sở vật chất, thư viện,
phòng học, các tiêu chí kiểm định chất lượng cũng cần có sự điều chỉnh để khuyến
khích ứng dụng công nghệ vào đào tạo, giảm chi phí, thời gian cho xã hội. Quản
lý nhà nước về tuyển sinh cũng cần thay đổi để các cơ sở có thể tự tuyển lựa
cho mình những thí sinh thích hợp với các điều kiện thích hợp để đào tạo thành
tài.
-
Thứ mười hai, các trường luật hiện nay cần chuyển
dịch sang thư viện số, tài liệu số, đa dạng hóa nguồn tài liệu. Các tài liệu số
cần được tạo điều kiện để dễ sử dụng. Tài liệu không chỉ tập trung vào giáo
trình, bài viết mà cả các cuốn “casebooks”, các phán quyết được cập nhật đầy đủ,
toàn văn, các quyết định, loại hợp đồng, thỏa thuận và hệ thống văn bản…
4. Thay
lời kết
CMCN 4.0 đã và đang tác
động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội và trên phạm vi toàn cầu. Trong bối
cảnh mới, các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam rõ ràng cần thay đổi để cạnh tranh,
tồn tại và phát triển. Nếu không có những thay đổi mạnh mẽ, các trường luật của
đất nước đang đứng trước nguy cơ không thể “sinh tồn” của quy luật đào thải khắc
nghiệt.
Cách mạng luôn đồng hành
cùng những chuyển động mang tính xáo trộn, căn cơ của xã hội. CMCN 4.0 cũng
không ngoại lệ. Đó không đơn thuần là sự cải tiến mà là sự thay đổi mạnh mẽ của
toàn xã hội trên phạm vi toàn cầu. Giáo dục pháp luật vì thế sẽ phải thay đổi
theo để thích ứng, tồn tại và phát triển.
Những khuyến nghị trên,
đương nhiên, sẽ không đúng với mọi cơ sở đào tạo luật và không thể phân tích đầy
đủ mọi khía cạnh của đào tạo luật, nhưng ở một chừng mực nào đó cho thấy cần có
sự đổi mới mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, mọi sự thay đổi trong giáo dục ở Việt Nam
cũng cần phải tính đến bối cảnh, yếu tố tâm lý, sự chuẩn bị kỹ lưỡng và sự đồng
thuận không chỉ trong cơ sở giáo dục mà còn xã hội. Những thay đổi nóng vội,
thiếu sự chuẩn bị kỹ, toàn diện thường không đem lại kết quả như mong đợi, thậm
chí còn phản tác dụng, gây sự bất mãn trong xã hội. Bởi, ngay chính tác giả bài
viết này cũng phải tự điều chỉnh và cần sự hỗ trợ nhiều hơn từ phía nhà nước,
cơ sở giáo dục đại học để điều chỉnh, hoàn thiện bản thân nhằm phù hợp hơn với
các điều kiện của nền giáo dục đại học trong kỷ nguyên 4.0./.
[1]
Việt Nam với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Sách tham khảo). Ban Kinh tế
Trung ương (Chủ biên: Nguyễn Văn Bình). NXB. Đại học Kinh tế quốc dân, 2017,
trang 17.
[2]
Chẳng hạn, ngày 4/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số 16/CT-TTg
về việc tăng cường năng lực tiếp cận CMCN 4.0… Ban Kinh tế Trung ương đã triển
khai, nghiên cứu và có những đề xuất cho từng lĩnh vực cụ thể… Ngày 01/1/2018
Nghị quyết 01 của Chính phủ cũng có những chính sách và chiến lược liên quan đến
cuộc cách mạng này ở Việt Nam.
[3]
Tiêu biểu trong số các hội thảo khoa học có thể điểm đến: 1) Hội thảo khoa học
quốc tế “Mô hình Đại học 4.0 – Nền tảng giáo dục thế kỷ 21” diễn ra tại trường
Đại học Nguyễn Tất Thành, tháng 7/2017; 2) Hội thảo khoa học quốc tế: “Cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư với Quản trị nhà nước” tại Học viện Hành chính
Quốc gia vào tháng 7/2017; 3) Hội thảo khoa học quốc tế “Cách mạng công nghiệp
4.0: Những xu hướng và chiến lược phát triển hiện nay” diễn ra vào tháng
11/2017 tại Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội; 4) Hội thảo khoa học “Cách mạng
công nghiệp 4.0 và những vấn đề đặt ra đối với việc cải cách hệ thống pháp luật
Việt Nam” tháng 1/2018 tại Khoa Luật, ĐHQGHN… Trong số các xuất bản phẩm uy tín
có thể kể đến cuốn sách tham khảo của Ban Kinh tế Trung ương “Việt Nam với cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” (Chủ biên: TSKH Nguyễn Văn Bình). NXB. Đại học
Kinh tế quốc dân, 2017….
[4]
Việt Nam với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Sách tham khảo).Tài liệu đã
dẫn. trang 358.
[5]
Tiêu biểu như Tổ hợp giáo dục Topica, Trường Đại học FPT và một số trường đại học
quốc tế hoặc liên kết quốc tế tại Việt Nam đã có những cải cách về chương trình
giảng dạy, quản trị địa học tiên tiến…
[6]
http://vnu-f.vnuhcm.edu.vn/tin-tuc/giao-duc-dai-hoc-trong-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-4-0/3530316864html (Truy cập ngày 20/1/2018)
[7]
Ngay trong cuốn “Việt Nam với
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Sách tham khảo) của Ban Kinh tế Trung
ương cũng chỉ nhấn mạnh đến bốn lĩnh vực then chốt là STEM: Science,
Technology, Engineering, Mathematics. Tuyệt nhiên, lĩnh vực đào tạo luật không
được đề cập đến.
[9] Việt
Nam với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Sách tham khảo). Tài liệu đã dẫn,
trang 34-50.
[10]
Việt Nam với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Sách tham khảo). Tài liệu
đã dẫn, trang 29.
[11]
Xem: Thông tin Giáo dục Quốc tế của Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, Tài liệu
đã dẫn.
[12] Xem
thêm: Thông tin Giáo dục Quốc tế của Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, số
29/2017 (www.cheer.edu.vn)
[13]
Thông tin của Bộ GD&ĐT và Văn phòng Ban chỉ đạo cải cách tư pháp TW (Dẫn
theo: Tham luận của PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn - Ủy viên thường trực Ủy ban cải cách
tư pháp TW “Một số nét về đào tạo và nghiên cứu luật ở các trường luật ở Việt
Nam” tại Hội thảo khoa học “Đổi mới hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học ở
các trường Luật ở Việt Nam hiện nay”, tổ chức tại Khoa Luật, ĐHQGHN tháng
10/2016). Số liệu này đến nay đã có chút thay đổi, bởi có 1 số cơ sở đào tạo đã
được cho phép mở mã ngành đào tạo luật, cho phép đào tạo sau đại học.
[14] Ở
ĐHQGHN, một số chương trình đào tạo thạc sĩ mang tính liên ngành cao như: Thạc
sĩ pháp luật về Quyền con người, Thạc sĩ Luật Biển và Quản lý biển và tới đây
là Thạc sĩ pháp luật về Quản trị nhà nước và phòng chống tham nhũng… đầu vào phải
là người tốt nghiệp cử nhân luật. Điều này làm cho tính liên ngành của chương trình bị hạn chế đi rất nhiều
và dường như không được phù hợp trong bối cảnh hiện nay.
[15] Khoa Luật, ĐHQGHN được trang bị 15
phòng học thông minh kể từ năm 2016.
[16] Chẳng hạn, để đánh giá đạt chuẩn hay
thành lập cơ sở giáo dục đại học thì cần có diện tích thư viện bao nhiêu … là một
trong những yêu cầu quan trọng của tiêu chuẩn mà cơ quan quản lý đề ra.
[17] Xem thêm: Legal Education in the
Digital age (2012). Edited by Edward Rubin. Cambridge University Press. P.13,
p. 200
[18] Xem thêm: https://tuoitre.vn/dai-hoc-singapore-my-day-sinh-vien-ra-sao-20171109144223329.htm (truy cập 25/2/2018).
[19]
Theo Edward Rubin, đây là một trong những biểu hiện của chính sách lấy người học
làm trung tâm. Ông viết: “….
we now know that learner-centered education is the most effective approach and
that mastery is generally achieved by experiential education, where the learner
is given the opportunity to perform the task in question, rather than merely
hearing a description of it.” (Xem: Legal Education in the Digital age (2012).
Edited by Edward Rubin. Cambridge University Press. P.13, p. 204).
[20]
Legal Education in the Digital age (2012). Edited by Edward Rubin. Cambridge
University Press. P.13, p. 204
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.