ảnh internet |
Viết cho sách chuyên khảo:
"書名:打開越南法律之窗"
(Tả Khai Việt Nam Pháp Lý Chi Song
(Mở cánh cửa pháp luật Việt Nam)).
NXB. Angel Publishing (Taiwan), 2022.
(Dưới đây là một nội dung nhỏ của cuốn sách khi chưa gửi NXB, phiên bản Tiếng Việt).
Tóm tắt: Trong chương này, tác giả giới thiệu tổng quan về tiến trình phát triển và các nội dung cơ bản của chế độ kinh tế, chính sách văn hóa, xã hội và bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp Việt Nam. Trên cơ sở đó, bằng các phương pháp phân tích quy phạm, phương pháp so sánh, tác giả tập trung phân tích, bình luận các quy định, một số điểm mới cơ bản về: (1) chế độ kinh tế, (2) chính sách văn hóa và xã hội, (3) bộ máy nhà nước. Trên cơ sở phân tích bối cảnh, đường lối, chính sách phát triển đất nước đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định trong Cương lĩnh Chính trị và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII để đưa ra những đánh giá, nhận định về xu hướng phát triển liên quan đến các nội dung trên và giúp người đọc nhận thức đầy đủ hơn về các vấn đề (1), (2), và (3) nêu trên trong thực tiễn đời sống chính trị - pháp lý đặc thù của Việt Nam.
1. Giới thiệu
Ngày 28 tháng 11 năm 2013, Hiến pháp hiện hành của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua và chính thức có hiệu lực
từ ngày 01 tháng 01 năm 2014 (Hiến pháp năm 2013). Hiến pháp khẳng định những
thành quả của công cuộc Đổi mới đã được bắt đầu từ cuối những năm 1980 của thế
kỷ XX và tạo tiền đề chính trị, cơ sở pháp lý quan trọng cho tiến trình hội nhập
quốc tế sâu rộng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN)
ở Việt Nam.
Lịch sử lập hiến Việt Nam chứng kiến những lần dịch chuyển
về mô hình, tư duy tổ chức quyền lực, quản lý xã hội trong hơn 75 năm qua. Từ một
Nhà nước với thuộc tính “Tất cả quyền bính
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”[1], Việt Nam đã từng bước thử nghiệm, tiếp nhận tư tưởng, mô
hình, tư duy quản lý và hệ thống chính trị hình mẫu Xô Viết (Hiến pháp năm 1959
và Hiến pháp năm 1980). Tuy nhiên, với những bất cập, hạn chế và khủng hoảng có
tính hệ thống của mô hình này, Việt Nam đã từng bước hiến định những thử nghiệm,
đổi mới hệ thống quản lý, tư duy tổ chức quyền lực của mình để tránh đổ vỡ như
Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu (Hiến pháp 1992 và sửa đổi năm 2021). Hiến
pháp hiện hành năm 2013 đã khẳng định những thành quả của công cuộc Đổi mới, tiếp
nhận những nguyên tắc, giá trị pháp quyền, dân chủ, nhân quyền, tạo tiền đề để
đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế cũng như các
xu thế, trào lưu phát triển chung của nhân loại và đi lên CNXH theo quan điểm,
nhận thức của Việt Nam.
Hầu hết các bản hiến pháp Việt Nam ở mức độ nhất định đều
chịu ảnh hưởng của mô hình hiến pháp Xô Viết (ngoại trừ Hiến pháp năm 1946), vì
vậy, ngoài những nội dung phổ biến về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy
nhà nước, về quyền và nghĩa vụ công dân, các quy định về chế độ kinh tế, các
chính sách về văn hóa, xã hội luôn có vị trí quan trọng và phản ánh bản chất của
chế độ.[2] Do đó, khi nghiên cứu về lịch sử lập hiến
của Việt Nam, những thay đổi, dịch chuyển liên quan đến chế độ kinh tế, chính
sách văn hóa xã hội và mô hình, tư duy tổ chức quyền lực nhà nước qua mỗi giai
đoạn phát triển cũng đã được nhận diện khá rõ.
Trong Hiến pháp hiện hành, nền kinh tế Việt Nam được khẳng
định “là nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo” nhưng cách tiếp cận về phát triển kinh tế có nhiều điểm mới
rất đáng chú ý.[3] Các chính sách về xã hội, văn hóa có nhiều
thay đổi mạnh mẽ và, đặc biệt, Hiến pháp này tạo cơ sở pháp lý quan trọng góp
phần tiếp tục cải cách, hoàn thiện “Nhà
nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” vốn đã được hiến
định lần đầu ở lần sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vào năm 2001.
Những phân tích chi tiết dưới đây sẽ làm rõ những nội
dung nêu trên và trên cơ sở kết quả những phân tích đó, đặt trong mối quan hệ
biện chứng với các chính sách, đường lối phát triển mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam và bối cảnh xã hội mới, Chương này sẽ làm rõ thêm một số vấn đề cần tiếp tục
hoàn thiện về chế độ kinh tế, chính sách văn hóa, xã hội và bộ máy nhà nước của
Việt Nam.
2. Chế độ kinh tế
trong Hiến pháp Việt Nam
Là
một trong những nội dung quan trọng nên chế độ kinh tế được quy định ngay tại
Chương III của Hiến pháp năm 2013. Theo đó, nền kinh tế Việt Nam được xác định
là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
đóng vai trò chủ đạo.[4] Đây
là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Hiến
pháp không xác định rõ nội hàm của mô hình kinh tế này, nhưng theo nhận thức thống
nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập
quốc tế, vận hành đầy đủ và đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo;
bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
văn minh”.[5] Mô
hình này cũng được Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam nhận diện “là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch
sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những
quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu,
tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ
(vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”.[6]
Tính
định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam dù không được xác định
trong Hiến pháp năm 2013, nhưng việc hợp nhất nội dung Chương 2 “Chế độ kinh tế”
với Chương 3 “Văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ” trong Hiến pháp 1992 để
hợp thành Chương 3 của Hiến pháp hiện hành với tên gọi “Kinh tế, xã hội, văn
hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường” đã phần nào làm rõ tính chất,
đường lối, quan điểm phát triển và tính định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường
Việt Nam. Điều 50 của Hiến pháp đã khẳng định quan điểm phát triển bền vững, gắn
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường.
Như
vậy, dù mô hình kinh tế tổng quát không thay đổi so với Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi năm 2001), nhưng cách tiếp cận mới về quan điểm phát triển kinh tế đã làm
rõ hơn tính chất định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hiến
pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định quyền bất khả xâm phạm của tài sản thuộc sở hữu
cá nhân và tổ chức (bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài) cũng như quyền tự
do kinh doanh. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh
doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng để nhà đầu tư yên tâm sản xuất, kinh doanh, bảo đảm môi trường đầu tư ổn
định, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Một
trong những điểm mới rất đáng chú ý của chế độ kinh tế theo Hiến pháp năm 2013
so với trước đây là sự tách bạch giữa kinh
tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Ngoài doanh nghiệp nhà nước, kinh tế
nhà nước còn bao gồm ngân sách nhà nước và các nguồn lực kinh tế - tài chính
khác.[7] Vì
vậy, dù vẫn quy định “kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo”, nhưng đã không còn hiểu doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam như trước đây. Hiến
pháp bảo đảm các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh
tranh theo pháp luật.[8]
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cũng không có nghĩa là kinh tế nhà nước
lãnh đạo các thành phần kinh tế khác mà là lực lượng vật chất, nguồn lực quan
trọng để nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy các
thành phần kinh tế cùng phát triển,[9]
góp phần thực hiện tính định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Bởi bằng các nguồn lực về ngân sách, kinh tế, tài chính của mình, Nhà nước điều
tiết và định hướng được nền kinh tế, còn với tư cách là các chủ thể kinh tế,
doanh nghiệp nhà nước bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. Để làm được
điều này, gần đây, Việt Nam đang nỗ lực tách bạch chức năng quản lý nhà nước và
chức năng đại diện sở hữu của Nhà nước. Việc thành lập Tổng công ty đầu tư và
kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) là một trong những minh chứng cho nỗ lực như thế.[10]
Một
điểm mới thể hiện rõ tư duy đổi mới của Việt Nam về kinh tế là hiến định vị trí
của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, trong đó có khu vực tư nhân. Nội dung
này của Hiến pháp là sự ghi nhận về mặt pháp lý quan điểm đổi mới của Đảng Cộng
sản Việt Nam thể hiện trong Nghị quyết số 10-NQ/TW năm 2017 của Ban Chấp hành
Trung ương khóa XII “Về phát triển kinh tế
tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”.[11]
Nội
dung quan trọng khác của chế độ kinh tế ở Việt Nam là xác định lại vai trò và
chức năng của Nhà nước đối với nền kinh tế. Theo Điều 52 của Hiến pháp năm
2013: “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể
chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường;
thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên
kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân”. Theo
đó, Nhà nước đã không còn ôm đồm mà xác định rõ phạm vi, giới hạn can thiệp đối
với nền kinh tế, làm rõ hơn nguyên tắc phân quyền, phân cấp trong quản lý kinh
tế, xác định rõ hơn vai trò của xã hội, mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường,
doanh nghiệp. Vai trò và chức năng điều tiết, định hướng của Nhà nước với nền
kinh tế đã được hiến định rõ hơn trước đây và minh chứng cho sự chuyển dịch tư
duy từ nhà nước quản lý toàn diện sang nhà nước điều tiết, định hướng. Đây là
minh chứng rõ nét cho nhận thức mới của lãnh đạo Việt Nam, sự chuyển dịch từ tư
duy quản lý sang tư quy quản trị hiện đại và tạo tiền đề hướng tới áp dụng các
nguyên tắc quản trị tốt ở Việt Nam.[12]
Một
trong những nội dung nhận được sự quan tâm lớn là sở hữu toàn dân. Đây chế định
có tính chất truyền thống của các bản hiến pháp mô hình Xô Viết.
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục sử dụng khái niệm
“sở hữu toàn dân” và định danh tài sản thuộc sở hữu toàn dân là tài sản công;
xác định rõ toàn dân là chủ sở hữu và chủ thể này thông qua Nhà nước (đại diện)
để thực hiện các quyền của chủ sở hữu. “Đất
đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời,
tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản
công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý.”[13]
Quy định trên có nhiều điểm khác biệt và được cho là minh định hơn, khái quát
hơn và tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế.[14]
Đất
đai vẫn được coi là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, là tài sản đặc biệt của
quốc gia. Đây được coi là bản chất của chế độ XHCN, nguồn lực quan trọng để nhà
nước quản lý, điều tiết và định hướng nền kinh tế. Đất đai còn là sản nghiệp của
nhiều thế hệ khai phá, bồi đắp, giữ gìn và bảo vệ, là thành quả cách mạng của cả
nhân dân thì không thể và không nên trở thành sở hữu của riêng cá nhân hay tổ
chức nào mà phải là Nhà nước[15] –
đại diện uy tín nhất, đầy đủ và chính đáng nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Theo quan điểm của giới lãnh đạo Việt Nam, việc thừa nhận sở hữu tư về đất đai
sẽ tạo ra sự bất bình đẳng, cá nhân, tổ chức giàu có sẽ thu mua, tích tụ đất
đai và tạo ra sự bất bình đẳng trong một thể chế muốn xóa bỏ sự bất bình đẳng,
bóc lột. Dù không thừa nhận sở hữu tư nhân về đất đai, nhưng Hiến pháp Việt Nam
bảo đảm “Nhà nước giao đất, cho thuê đất,
công nhận quyền sử dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất,
thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được
pháp luật bảo hộ.” Như vậy, cá nhân, tổ chức được trao quyền sử dụng đất và
quyền này được thừa nhận là quyền tài sản, được giao dịch trên thị trường, chuyển
nhượng hợp pháp. Việc thu hồi đất, trưng dụng đất đã được hiến định một cách rõ
hơn về điều kiện và được cụ thể hóa trong luật chuyên ngành để tránh tùy tiện,
tạo kẽ hở cho tham nhũng, thu hồi đất. Điều 54 của Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần
thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội
vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và
được bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Những
bất cập hiện nay liên quan đến đất đai được cho là có nguyên nhân từ phương thức
quản lý, khâu tổ chức thực hiện yếu kém chứ không hoàn toàn xuất phát từ hiến định
sở hữu toàn dân về đất đai.[16]
Tuy nhiên, thực tế cho thấy những kẽ hở trong thu hồi đất vẫn đang được tận dụng
tương đối triệt để, việc công khai, minh bạch và giám sát chưa được bảo đảm, cơ
chế kiểm soát quyền lực chưa tốt vẫn là những kẽ hở, miếng mồi béo bở để người
có chức vụ quyền hạn, doanh nghiệp trục lợi về đất đai, gây ra nhiều bức xúc và
thậm chí những có những thời điểm hay vụ việc gây căng thẳng, xung đột trong xã
hội. Bên cạnh đó, việc Nhà nước vừa đóng vai đại diện chủ sở hữu vừa là chủ thể
quản lý cũng làm cho mối quan hệ này chưa được lành mạnh và là một trong những
điểm cần tiếp tục hoàn thiện ở Việt Nam trong thời gian tới.
Các
thuật ngữ “tài nguyên nước”, “tài nguyên khoáng sản” và các nguồn lợi ở vùng biển,
vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư (Điều
53) được sử dụng lần đầu trong Hiến pháp đã góp phần minh định rạch ròi, tạo điều
kiện phát triển kinh tế, xã hội. Chẳng hạn, khoáng sản khi tồn tại ở dạng tài
nguyên thì mới thuộc sở hữu toàn dân, còn khi đã được khai thác, chế biến thì sẽ
thuộc nhiều hình thức sở hữu; hoặc rừng tự nhiên thì mới thuộc sở hữu toàn dân
còn rừng trồng, rừng kinh tế… thì thuộc nhiều thành phần sở hữu khác nhau.
Cùng
với tài sản công, một trong những nội dung mới của chế độ kinh tế được hiến định
là tài chính công và đơn vị tiền tệ quốc gia.[17] Lần
đầu tiên Đồng Việt Nam được hiến định là đơn vị tiền tệ quốc gia. Việc ghi nhận
này có mục tiêu gắn trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm ổn định giá trị đồng
tiền – điều quan trọng, tạo môi trường ổn định cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, vận hành bình thường của nền kinh tế.
Những
quy định về tài chính công (ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài
chính…) được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp là để xác định trách nhiệm của
Nhà nước ở mức cao nhất trong quản lý, sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai
và minh bạch nhằm tạo cơ sở, hành lang pháp lý sử dụng, điều tiết, thúc đẩy và
định hướng nền kinh tế hiệu quả, ngăn ngừa tham nhũng, lợi ích nhóm.
Như
vậy, có thể thấy, chế định kinh tế trong Hiến pháp hiện hành của Việt Nam vừa
thể hiện tính kế thừa các quan niệm, tư tưởng, chính sách kinh tế được thể hiện
ở Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), được tích lũy trong hơn 35 năm đổi mới,
đồng thời thể hiện quan điểm mới, phù hợp với xu thế quản trị hiện đại, hội nhập
kinh tế quốc tế và mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân.
3. Chính sách văn
hóa và xã hội trong Hiến pháp Việt Nam
Chính
sách đối với văn hóa, xã hội luôn nhận được sự quan tâm lớn và có tầm quan trọng
đặc biệt bởi qua đây không chỉ thể hiện chức năng, vai trò của Nhà nước, mà còn
thể hiện bản chất của chế độ, là giá trị, bản sắc của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam.
Thành
tựu dễ nhận thấy nhất của Hiến pháp 2013 là việc hiến định các quyền con người,
trong đó có các quyền về văn hóa và xã hội. Đây là bước tiến vượt bậc không chỉ
trong nhận thức mà còn tạo khung pháp lý quan trọng góp phần bảo vệ, bảo đảm và
thúc đẩy các quyền con người từ phía Nhà nước cũng như của các chủ thể khác.
Như
đã dẫn giải ở trên, một cách tiếp cận mới trong Hiến pháp này là gắn chặt chẽ
phát triển kinh tế với văn hóa và xã hội. Điều này gắn liền với mục tiêu phát
triển bền vững và bản chất của chế độ định hướng XHCN.
Về lao động, việc làm,
Hiến pháp năm 2013 điều chỉnh vai trò của Nhà nước trong hoạch định chính sách,
kiến tạo hành lang pháp lý, khuyến khích và tạo điều kiện, còn việc giải quyết
việc làm chủ yếu được thực hiện thông qua chủ thể ngoài nhà nước. Nếu đem so
sánh với quy định tại Điều 55 Hiến pháp năm 1992 khi quy định Nhà nước có kế hoạch
tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động thì chính sách lao động và việc
làm ở Hiến pháp hiện hành phù hợp hơn với chức năng, vai trò của nhà nước trong
nền quản trị công mới.[18] Đây
là cách tiếp cận phù hợp khi Việt Nam đang hội nhập quốc tế mạnh mẽ, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN và thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân như
là động lực quan trọng của nền kinh tế.
Hiến
pháp năm 2013 cũng đã bổ sung thêm quy định về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng lao động để bảo đảm bình đẳng về quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên liên quan trong quan hệ lao động. Đây là quy định cụ thể hóa chiến lược
của Đảng Cộng sản Việt Nam về “xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn
định”.[19]
Quy
định trên cho thấy cách tiếp cận hiện đại, khác với tư duy truyền thống khi mà
trước đây, với cách tiếp cận cũ, giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo nên
các chính sách thường hướng nhiều hơn đến quyền, lợi ích của giai cấp này và do
đó phần nào thiếu sự công bằng với những người sử dụng lao động, không quan tâm
đầy đủ và công bằng những khó khăn hay đóng góp của họ cho sự phát triển của xã
hội. Vì vậy, ở Việt Nam đã hiện hữu môi trường kinh doanh, quan hệ lao động đôi
khi mang tính áp đặt, nặng về tư tưởng hơn là xử lý hài hòa, ổn định, bảo đảm
được quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động, tạo lập môi trường
kinh doanh bền vững, lành mạnh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, hội
nhập thành công để có được nền tảng vật chất, cơ sở hạ tầng hiện đại, tiềm lực,
nguồn lực thúc đẩy sự tiến bộ, công bằng xã hội, chăm lo đời sống và an sinh xã
hội cho giai cấp công nhân và người lao động nói chung.
Về chăm sóc sức khỏe
nhân dân, Hiến pháp năm 2013 hiến định các chính sách “bảo hiểm ý tế toàn dân”, “xã hội hóa các hoạt động chăm sóc sức khỏe
nhân dân”, “ưu tiên và trợ giúp cho
các đối tượng chính sách và người nghèo, cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng
bào miền núi, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn trong
hoạt động chăm sóc sức khỏe” và ưu tiên đầu tư hoàn thiện mạng lưới y tế cơ
sở và nâng cấp hệ thống bệnh viện tuyến dưới nhằm thực hiện tốt nhất nhiệm vụ bảo
vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, phù hợp với bản chất của chế độ, điều kiện
cụ thể và định hướng phát triển của đất nước.
Như
vậy, có thể thấy, Việt Nam đã hiến định một loạt những chính sách lớn về chăm
sóc sức khỏe nhân dân thể hiện nhất quán quan điểm, chủ trương “không ai bị bỏ lại phía sau” trong vấn đề
chăm sóc sức khỏe và bằng mọi biện pháp thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư cho
y tế và hệ thống chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Chính
sách xã hội đối với người có công, nhà ở và các chính sách an sinh xã hội cũng
đã được hiến định và có nhiều đổi mới. Điều 59, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà
nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người
có công với nước. Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi
xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi,
người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác. Nhà nước có
chính sách phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở.”
Liên
quan đến an sinh xã hội, xuất phát từ đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, Hiến pháp năm 2013 bổ sung quyền công dân được hưởng an sinh xã hội
(Điều 34). Đây là quyền lần đầu tiên được hiến định và khác với nhiều quyền
khác của công dân vì để thực hiện được quyền này Nhà nước có vai trò quyết định,
bởi chỉ có Nhà nước mới có thể xây dựng được một hệ thống duy trì thu nhập để
thực hiện chính sách an sinh xã hội. Vì vậy, khi hiến định quyền này đồng nghĩa
với trách nhiệm bảo đảm thực hiện thuộc về Nhà nước.
Hiến
pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định mục tiêu, tính chất của nền văn hóa Việt Nam
và xác định chính sách phát triển văn hóa toàn diện ba trong số các lĩnh vực hết
sức đa dạng của văn hóa: 1) văn học, nghệ
thuật; 2) thông tin; 3) gia đình.
Chính
sách chung về văn hóa được hiến định vẫn là “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại”[20] Mục
tiêu cao nhất của chính sách văn hóa là xây dựng con người Việt Nam hiện đại với
06 chuẩn mực cốt lõi về văn hóa “có sức
khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ,
trách nhiệm công dân”.[21]
Chính
sách về văn hóa trong Hiến pháp năm 2013 không có nhiều thay đổi so với trước
đây, có chăng khác biệt chỉ nằm ở kỹ thuật xây dựng quy định khi đã bảo đảm sự
ngắn gọn, xúc tích và bao quát. Tuy nhiên, trên thực tế, sự khác biệt chính là ở
khâu tổ chức thực hiện.
Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2021 đã nhận
diện “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thực
sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Vai trò của văn hóa trong việc xây dựng con người chưa được đúng tầm… Môi trường
văn hóa tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực…”.[22]
Xuất phát từ nhận thức đó, tháng 11 năm 2021, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức
Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ 2[23] để
thảo luận và triển khai các chính sách lớn về văn hóa, thay đổi nhận thức coi
văn hóa phải ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội. Các văn bản pháp luật,
chiến lược về phát triển văn hóaViệt Nam đã được xây dựng và phát triển mạnh mẽ
trong thời gian qua.[24]
4. Bộ máy nhà nước
Việt Nam theo Hiến pháp
Nếu
so với những cải cách về kinh tế đã đạt được trong hơn 35 năm qua, thì những cải
cách ở Việt Nam về chính trị, mô hình, phương thức tổ chức quyền lực nhà nước
và quản trị quốc gia được cho là chưa nhiều và có phần chậm chạp hơn.
Tuy
nhiên, Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi đáng ghi nhận, tạo tiền đề cho
những cải cách, hoàn thiện. Những chính sách về cải cách không chỉ được hiến định
mà còn được thể hiện trong rất nhiều văn kiện và hoạt động chính trị-pháp lý gần
đây.[25]
a) Các nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước
Bên
cạnh những nguyên tắc truyền thống mang bản chất của chế độ như “Sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội”[26],
“Tập trung dân chủ”[27],
“Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân”[28],
“bình đẳng giữa các dân tộc”[29],
Hiến pháp năm 2013 đã có những bổ sung, điều chỉnh nội hàm một số nguyên tắc cơ
bản sau:
Nguyên tắc “Pháp quyền
xã hội chủ nghĩa” (Điều 2). Đây là nguyên tắc hoàn toàn mới
so với nguyên tắc “Pháp chế xã hội chủ
nghĩa” được ghi nhận ở các bản Hiến pháp trước đó của Việt Nam.
Khác
với nhận thức, tư duy truyền thống, Hiến pháp năm 2013 khẳng định trong Lời nói
đầu “Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến
pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân (Tác giả để chữ đậm) Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ
Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”
Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định Quốc hội là chủ thể xây dựng Hiến pháp
còn Nhân dân là chủ thể “nghiêm chỉnh thi
hành Hiến pháp” trong khi Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện được chủ quyền
nhân dân, Nhân dân là nguồn gốc, chủ thể kiến tạo quyền lực nhà nước. Thông qua
việc xây dựng Hiến pháp,
Nhân dân thiết lập nên bộ máy nhà nước, trao quyền, giao nhiệm vụ tổ chức, quản
lý xã hội nhằm đạt tới các mục tiêu, giá trị chung, bảo vệ những nền tảng và tự
do cơ bản cũng như để bảo vệ, bảo đảm, thúc đẩy các quyền con người, công dân.
Đó là một trong những biểu hiện cơ bản nhất của pháp quyền. Hiến pháp phải thực
dự là sản phẩm của nền dân chủ thì mới có được những bảo đảm bước đầu, cơ bản của
nền pháp quyền.[30]
Ngoài
ra, tại Điều 8 Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi nhằm củng cố nền tảng
pháp quyền. Theo đó, tư duy “Nhà nước được
tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 8) đã thay cho nhận
thức “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” được ghi nhận trong
Điều 12 Hiến pháp năm 1992. Quy định như vậy mới bảo đảm ít nhất về mặt hình thức
của nguyên tắc pháp quyền và mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.[31]
Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật là tối thượng vì có hiến pháp tối thượng.
Bộ máy nhà nước cũng là sản phẩm được hiến định để thi hành những quy định, triển
khai những nhiệm vụ được hiến pháp ủy thác.
Một
nguyên tắc khác cũng có sự thay đổi so với trước đây đây là nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.”[32]
Đã có nhiều tranh luận khoa học liên quan đến quy định “Quyền lực nhà nước là
thống nhất”. Theo nhiều tác giả, cần làm rõ, quyền lực nhà nước là thống nhất,
vậy thống nhất ở đâu? Thống nhất ở Quốc hội hay ở Nhân dân?[33]
Nếu
quyền lực nhà nước thống nhất ở Quốc hội thì không thể giải thích được tại sao trong
Hiến pháp hiện hành lại không còn quy định “Quốc
hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” (tại Điều 83 Hiến
pháp năm 1992) và lần đầu tiên thừa nhận quyền lập hiến và quyền lập pháp là
hai quyền riêng biệt. Điều này cũng phù hợp với Lời nói đầu của Hiến pháp năm
2013 khi xác nhận Nhân dân là chủ thể xây dựng Hiến pháp (chủ thể quyền lập hiến).
Quyền
lập hiến là quyền kiến tạo ra hiến pháp và qua đó tạo ra bộ máy nhà nước để vận
hành quyền lực, thực thi các nguyên tắc và các quy định của hiến pháp. Quốc hội
là cơ quan đặc thù trong mô hình Việt Nam, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Theo ủy thác của Hiến pháp, Quốc
hội “thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp” [34]
mà cụ thể là tiến hành các hoạt động “Làm
Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật” và một số chức
năng, nhiệm vụ khác được ủy thác.[35]
Với
quy định này, về mặt thực tế, Quốc hội vẫn là cơ quan làm hiến pháp chứ không
chỉ là cơ quan làm luật. Tuy nhiên, về mặt quy định, Quốc hội chỉ là cơ quan được
giao thực hiện quyền lập hiến mà thôi
chứ không phải là cơ quan nắm giữ hay sở
hữu quyền này. Quyền lực tập trung ở Hiến pháp – ở Nhân dân – chủ thể giữ
quyền lập hiến.
Điểm
khác biệt so với mô hình tập quyền XHCN trước đây là quyền lực không tập trung
vào một cơ quan mà tập trung ở Nguồn cội của nó - Hiến pháp. Các cơ quan như Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân… chỉ là cơ quan thực hiện quyền chứ không phải
là cơ quan nắm giữ các quyền này. Nhưng do vẫn chịu ảnh hưởng của mô hình Xô Viết,
Quốc hội vẫn được quy định là “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”. Vì vậy, để
thực hiện hiệu quả việc tổ chức thực hiện quyền lực thì cần phải phân công, phối
hợp và kiểm soát trong việc thực hiện quyền (tác giả để chữ đậm).[36] Chủ
thể cao nhất nhân danh sự ủy thác của Nhân dân thực hiện quyền phân công, điều
phối việc phối hợp và thiết lập cơ chế kiểm soát thực hiện quyền chính là Quốc
hội và cơ quan này thực hiện quyền này thông qua nhiệm vụ “thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp”. Vì vậy, dù Hiến pháp năm 2013 có bổ sung từ “kiểm soát”
vào nguyên tắc trên nhưng thực chất vẫn chỉ là kiểm soát thực hiện quyền mà
không phải bổ sung cơ chế kiểm soát quyền lực mới. Cơ chế pháp lý kiểm soát việc
thực hiện quyền lực vẫn sẽ do Quốc hội xây dựng và ban hành và do đó dù có hay
không đưa vào Hiến pháp, thì từ trước tới nay Quốc hội Việt Nam vẫn luôn nỗ lực
trong việc kiểm soát thực hiện quyền lực nhà nước. Vì lẽ đó, vẫn đâu đó có câu
hỏi, ai/thiết chế nào sẽ kiểm soát hiệu quả việc thực hiện quyền lực của Quốc hội
đặc biệt là trong bối cảnh hệ thống chính trị và mô hình tổ chức quyền lực
không thể dung nạp được lý thuyết tam quyền phân lập, xã hội dân sự, nền dân chủ
nghị viện đa nguyên và hệ thống bầu cử đa đảng kiểu tư sản.
b) Bộ máy nhà nước Việt
Nam
- Quốc hội Việt Nam. Thuật
ngữ “Quốc hội” đã được hiến định ngay trong Hiến pháp đầu tiên của nền cộng hòa
dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, đó là Quốc hội lập hiến chứ không phải Quốc hội
như ngày nay.[37]
Theo Hiến pháp năm 1946, cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết
ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài[38]
không phải là Quốc hội mà là Nghị viện nhân
dân. Như vậy, đã có sự phân biệt rất rõ giữa Quốc hội lập hiến và Quốc hội
lập pháp (Nghị viện nhân dân).[39]
Chỉ từ khi Việt Nam tiếp nhận mô hình tổ
chức quyền lực kiểu Xô Viết, Quốc hội Việt Nam mới có vị trí hiến định (lần đầu
trong Hiến pháp năm 1959) là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và đồng thời cũng nắm quyền lập pháp. Đến Hiến pháp năm
2013, vị trí, chức năng hiến định của Quốc hội có ít nhiều thay đổi như đã phân
tích ở trên để phù hợp hơn với nguyên tắc và mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN. Điều 69 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Quốc hội thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.”
Như
vậy, về bản chất, Quốc hội Việt Nam là: 1)
là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nhà nước CHXHCN Việt Nam; 2) là cơ
quan đại biểu cao nhất của Nhân dân Việt Nam.
Là
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất bởi Quốc hội được hiến định là cơ quan duy
nhất ở cấp độ cao nhất do nhân dân cả nước trực tiếp bầu ra và trao cho quyền lực.
Tất cả các thiết chế, cơ quan khác trong bộ máy nhà nước đều phái sinh từ Quốc
hội, bao gồm cả Người đứng đầu Nhà nước và các cơ quan thực hiện quyền hành
pháp, thực hiện quyền lập pháp, các thiết chế hiến định khác và hệ thống các bộ
phận cấu thành của các cơ quan ấy. Mỗi nhiệm kỳ Quốc hội là năm năm và sau kỳ bầu
cử thành công, Quốc hội khóa mới sẽ bầu, phê chuẩn các chức danh đại diện cho
các thiết chế, cơ quan quan trọng khác trong bộ máy để thực hiện quyền lực nhà
nước.
Quốc
hội Việt Nam dự kiến thành phần 500 đại biểu được bầu theo nguyên tắc phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.[40]
Dù được bầu tại các đơn vị bầu cử nhưng khi trở thành đại biểu Quốc hội họ phải
là đại biểu đại diện cho ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Về
chức năng, Quốc hội: 1) thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; 2) quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước; và 3) giám sát tối cao đối với hoạt động của
Nhà nước.
Quốc
hội có Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban. Chủ tịch Quốc
hội là người chủ tọa các phiên họp của Quốc hội; ký chứng thực Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội; lãnh đạo công tác của Ủy ban thường vụ Quốc hội; tổ chức
thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội; giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội.
Chủ tịch nước CHXHCN Việt
Nam – là người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho Nhà nước về
mặt đối nội và đối ngoại.[41]
Thiết
chế Chủ tịch nước ở Việt Nam có lịch sử phát triển khá đặc biệt. Theo Hiến pháp
năm 1946, Chủ tịch nước không chỉ giữ vai trò Nguyên thủ Quốc gia mà còn là người
đứng đầu Chính phủ. Đến Hiến pháp năm 1959 Chủ tịch nước được tách ra khỏi Hội
đồng Chính phủ và trở thành thiết chế độc lập do Quốc hội bầu ra.[42]
Theo Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Nhà nước – một cơ quan thường trực của Quốc hội
– trở thành Nguyên thủ tập thể của Nhà nước Việt Nam.[43] Đến
Hiến pháp năm 1992 thì thiết chế Chủ tịch nước mới được tái lập lại cho đến
nay.
Ở
Việt Nam, Chủ tịch nước có chức năng, nhiệm vụ tương đối khiêm tốn trên thực tế
và phần nhiều mang tính biểu tượng. Vị trí này do Quốc hội bầu ra trong số đại
biểu Quốc hội nhưng hiện nay chưa có quy định cụ thể nào về tiêu chuẩn riêng với
ứng viên Chủ tịch nước. Về phương diện tập quán chính trị, ứng viên giữ chức vụ
này thường phải là những nhân vật cao cấp nhất trong số các lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.[44]
Giúp việc cho Chủ tịch nước có Phó Chủ tịch nước và Văn phòng Chủ tịch nước.
Chính phủ Việt Nam được
hiến định là: 1) cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 2) thực hiện quyền hành pháp; 3) là cơ quan
chấp hành của Quốc hội.
Theo
mô hình của Việt Nam, Chính phủ luôn được định danh là cơ quan chấp hành của Quốc
hội. Đây là hình mẫu của mô hình Xô Viết bởi Chính phủ được Quốc hội lập ra để
tổ chức triển khai các chủ trương, chính sách, đường lối của cơ quan quyền lực
nhà nước. Bên cạnh đó, Chính phủ còn là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất,
chịu trách nhiệm cao nhất về nền hành chính công vụ trong phạm vi cả nước. Điểm
khác biệt lớn nhất trong Hiến pháp năm 2013 là quy định “Chính phủ thực hiện
quyền hành pháp”. Quy định này phù hợp với nguyên tắc phân công quyền lực được
xác định ngay ở Điều 2 Hiến pháp năm 2013 và đã được phân tích ở trên.
Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.[45]Hệ
thống tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh các tòa án quân sự, được
phân thành 04 cấp: 1) Tòa án nhân dân tối cao (đặt ở Hà Nội); 2) Tòa án nhân
dân cấp cao (03 tòa án đặt ở Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh); 3) Tòa án
nhân dân cấp tỉnh (đặt ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương mỗi địa
phương 01 tòa án); và 4) Tòa án nhân dân cấp huyện (đặt ở mỗi quận, huyện, thị
xã, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, thành phố thuộc tỉnh 01
tòa án).[46]
Ở
Việt Nam, tòa án nhân dân xét xử tập thể, quyết định theo đa số và thực hiện chế
độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia (trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút
gọn). Luật ghi nhận nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử,
tuy nhiên, hiện nay, thẩm phán ở Việt Nam được bổ nhiệm có nhiệm kỳ và chế độ bầu
hội thẩm nhân dân vẫn đang được áp dụng.
Một
trong những điểm mới là ghi nhận nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân của tòa án. Điều này chưa hề có trong các bản hiến pháp trước
đây. Bên cạnh đó, việc tiếp nhận những nguyên tắc tố tụng mới như “bảo đảm
tranh tụng trong xét xử”, “suy đoán vô tội”…hay thừa nhận án lệ cùng với một loạt
những nỗ lực cải cách tư pháp trong nhiều năm qua đã góp phần từng bước hoàn
thiện hệ thống tư pháp và hoạt động xét xử ở Việt Nam.
Viện kiểm sát nhân dân
là thiết chế được du nhập vào Việt Nam từ sau Hiến pháp 1959 – Hiến pháp đầu
tiên ảnh hưởng bởi mô hình Xô Viết. Cơ quan này có hệ thống tổ chức 04 cấp
tương tự như Tòa án nhân dân nhưng khác biệt về mô hình, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức theo chế độ thủ trưởng, theo đó
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân của một cấp là người chịu trách nhiệm toàn
diện cho cấp đó và với Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên và cao nhất là Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Khác
với tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân không nằm trong số các cơ quan thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vị trí của Viện kiểm sát nhân
dân vẫn đang còn có những tranh luận, tuy nhiên, xét về khía cạnh tổ chức, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Quốc hội bầu và cùng với hệ thống của
mình, thiết chế này
giúp Quốc hội giám sát việc tuân thủ nghiêm minh và triệt để Hiến pháp và pháp
luật trong cả nước, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.
Về
mặt chức năng, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp. Trước đây, chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân rộng
hơn khi được giao thực hiện kiểm sát chung. Sau cải cách Hiến pháp năm 2001, chức
năng này bị thu hẹp lại trong phạm vi hoạt động của hệ thống các cơ quan tư
pháp như: tòa án, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án.[47]
Hội đồng bầu cử quốc
gia và Kiểm toán nhà nước là hai thiết chế hiến định khác của
bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay. Theo Hiến pháp hiện hành, Hội đồng bầu cử quốc
gia là cơ quan do Quốc hội thành lập, có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc
hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Trước đây, Việt Nam có Ủy ban bầu cử quốc gia. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức bầu
cử nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và vì vậy, nhu cầu cần có một thiết chế hiến
định có địa vị pháp lý cao hơn để xử lý các vấn đề phát sinh. Hội đồng bầu cử
quốc gia do Quốc hội thành lập nhưng không phải là một bộ phận cấu thành của Quốc
hội như trước đây. Tuy nhiên, tính độc lập của thiết chế này vẫn chưa được minh
định do đặc thù của hệ thống chính trị Việt Nam. Thành viên Hội đồng bầu cử quốc
gia hiện vẫn có thể đồng thời là ứng viên tham gia tranh cử đại biểu Quốc hội.
Kiểm
toán nhà nước là thiết chế cũng do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản
công. Đây được cho là thiết chế khá hiệu quả khi giúp Quốc hội thực hiện giám
sát thu chi, quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công trên phạm vi cả nước. Sự
độc lập của thiết chế này được bảo đảm sẽ luôn là công cụ hiệu quả để Quốc hội
kiểm soát được hệ thống hành chính và các cơ quan nhà nước khác trong lĩnh vực
hết sức nhạy cảm này.
Chính
quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay được tổ chức ở các đơn vị hành chính. Theo
Hiến pháp, cả nước chia thành 04 cấp đơn vị hành chính: Trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện và cấp xã. Ở mỗi cấp chính quyền địa phương sẽ tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân. Nếu chỉ thành lập Ủy bản nhân dân mà không có Hội đồng nhân
dân thì ở đơn vị hành chính đó không được coi là một cấp chính quyền địa
phương.
Hội
đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu
trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.[48]
Ủy
ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là
cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước
cấp trên.[49]
Ủy
ban nhân dân là cơ quan song trùng trực thuộc (chịu trách nhiệm trước Hội đồng
nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính cấp trên). Trong bối cảnh Việt Nam, dù
có những thay đổi mạnh mẽ về phân cấp, phân quyền trong Luật tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015, song các cơ quan của chính quyền Việt Nam vẫn cần bảo đảm
nguyên tắc Tập trung dân chủ, Đảng lãnh đạo và nhiều nguyên tắc khác của một
nhà nước theo cấu trúc đơn nhất và định hướng XHCN.
5. Kết luận
Hiến
pháp Việt Nam mang dấu ấn và chịu ảnh hưởng của mô hình hiến pháp Xô Viết. Vì vậy,
các bản hiến pháp thường được ví như các văn kiện chính trị - pháp lý chứ không
phải là dạng khế ước xã hội. Khả năng áp dụng trực tiếp rất hạn chế, nhưng hiến
pháp mô hình này lại thường chứa đựng nhiều chính sách, mục tiêu lớn, hàm chứa
đầy đủ những tuyên ngôn chính trị của lực lượng cầm quyền, quy định tương đối
toàn diện và đầy đủ các nội dung cơ bản của đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội.
Hiến
pháp năm 2013 của Việt Nam dù đã có nhiều cải cách nhưng vẫn mang những dấu ấn
đó. Vì lẽ đó, qua bản Hiến pháp này, chế độ kinh tế, các chính sách văn hóa xã
hội và bộ máy nhà nước được thể hiện tương đối đầy đủ và toàn diện.
Về
mặt kinh tế, Việt Nam đang xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Đây là thể chế kinh tế thừa nhận, tôn trọng các quy luật của thị
trường nhưng cũng gắn với định hướng đi lên CNXH của Việt Nam.
Các
chính sách xã hội, văn hóa được hiến định theo hướng tăng cường sự hiện diện của
các chủ thể ngoài nhà nước vào thực hiện các chính sách xã hội, văn hóa, nhà nước
đóng vai trò kiến tạo, điều tiết và định hướng sao cho phù hợp với mục tiêu, đường
lối và con đường phát triển của Việt Nam.
Hiến
pháp năm 2013 đã có những thay đổi cơ bản để hướng đến xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Dù vậy, những thay đổi được coi là chưa đủ mạnh
để cho thấy sự hiện hữu của một nhà nước pháp quyền theo các chuẩn mực phổ quát
trong khi chưa có một văn bản pháp lý nào ghi nhận hay giải thích một cách
chính thức những đặc thù cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCN của Việt Nam. Điều
này cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục cải cách thể chế, mô hình, phương thức
và thậm chí là các nguyên tắc tổ chức quyền lực để mối quan hệ giữa Nhà nước –
Thị trường – Xã hội được vận hành một cách trơn tru, lành mạnh, hiệu quả, thúc
đẩy, nâng đỡ và kiểm soát lẫn nhau để Việt Nam có được một xã hội ngày càng thịnh
vượng, có bản sắc, phát triển bền vững, dân chủ, tiến bộ, văn minh.
6. Danh mục tài liệu
tham khảo
6.1.
Các văn bản
1.
Hiến pháp Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946.
2.
Hiến pháp Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959.
3.
Hiến pháp Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1980.
4.
Hiến pháp Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001).
5.
Hiến pháp Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.
6.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản khóa XII trình Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (Văn kiện đại hội
đại biểu lần thứ XIII của Đảng. NXB Chính trị Quốc gia sự thật, Tập 1, 2 năm
2021).
7.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam.
8.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/chi-thi-so-37-cttw-ngay-0392019-cua-ban-bi-thu-ve-tang-cuong-su-lanh-dao-chi-dao-xay-dung-quan-he-lao-dong-hai-5720
6.2.
Tài liệu khoa học
1.
Nguyễn Thị Quế Anh, Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh (2020), Một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về quản trị công. NXB.
Tư pháp.
2.
Nguyễn Minh Đoan, Bàn về lập hiến. Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp số tháng 5/2002.
3.
Nguyễn Minh Tuấn, Phạm Thị Duyên Thảo, Mai Văn Thắng (2017), Giáo trình Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt
Nam. NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.
4.
Viện Chính sách công và pháp luật, Bình
luận khoa học Hiến pháp năm 2013 (2014). NXB. Lao động xã hội.
5.
Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh, Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn (2017), Quản trị tốt – Lý luận và thực tiễn.
NXB. Chính trị Quốc gia sự thật.
[1] Điều thứ nhất, Hiến pháp Việt
Nam Dân chủ cộng hòa năm 1946.
[2] Hiến pháp năm 1946 chưa chịu ảnh
hưởng mô hình Hiến pháp Xô Viết bởi đây là Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam và
lúc đó, do bối cảnh đặc biệt, Việt Nam chưa gia nhập vào hệ thống XHCN, chưa nhận
được sự hậu thuẫn của Liên Xô.
[3] Xem Điều 51 Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam năm 2013.
[4] Khoản 1 Điều 51 Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam năm 2013.
[5] Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ
XIII của Đảng, Tập 1, NXB. Chính trị quốc gia sự thật, 2021, trang 128.
[6] Trích Bài viết của Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam Khóa XIII, Nguyễn Phú Trọng đăng trên Trang thông tin điện tử
của Báo Nhân Dân ngày 01/8/2021. Bài phát biểu này được giới truyền thông và giới
nghiên cứu chính trị đánh giá như là một nhận thức mới về bản chất và con đường
đi lên CNXH ở Việt Nam. Xem tại: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Truy cập ngày
12/02/2021).
[7] Xem: Viện Chính sách công và
pháp luật, Bình luận khoa học Hiến pháp năm 2013 (2014). NXB. Lao động xã hội,
trang 245.
[8] Khoản 2, Điều 51 Hiến pháp Việt
Nam năm 2013.
[9] Báo cáo Chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
[10] Xem thêm về SCIC: http://www.scic.vn/index.php/vi/gia-i-thia-u/l-nh-va-c-hoa-t-a-ng
[11] Xem toàn văn Nghị quyết tại đây:
https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/phat-trien-kinh-te-tu-nhan-tro-thanh-mot-dong-luc-quan-trong-cua-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xhcn-544977.html
[12]
Xem: Vũ Công Giao, Nguyễn
Hoàng Anh, Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn (Đồng Chủ biên), Quản trị tốt – Lý
luận và thực tiễn. NXB. Chính trị Quốc gia sự thật, 2017.
[13] Điều 53, Hiến pháp năm 2013 của
Việt Nam.
[14] Xem: Nguyễn Văn Phúc, Quy định về
kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường trong Hiến
pháp năm 2013 trong cuốn “Bình luận khoa học Hiến pháp năm 2013”. NXB. Lao động
xã hội, Hà Nội, trang 253.
[15]
Xem: Viện Chính sách công và pháp luật, Bình luận khoa học Hiến pháp năm
2013. NXB. Lao động xã hội, Hà Nội, 2014 trang 248.
[16] Xem: Viện Chính sách công và
pháp luật, Bình luận khoa học Hiến pháp năm 2013. NXB. Lao động xã hội, Hà Nội,
2014 trang 249.
[17] Khoản 3, Điều 55 Hiến pháp năm
2013 của Việt Nam.
[18] Xem: Đoàn Văn Nhật, Vũ Công
Giao, Khái niệm và xu hướng phát triển của
quản trị công, trong sách “Một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về
quản trị công” (Nguyễn Thị Quế Anh, Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh đồng chủ
biên). NXB. Tư pháp, 2020, trang 11-16.
[19] Xem tại đây: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/chi-thi-so-37-cttw-ngay-0392019-cua-ban-bi-thu-ve-tang-cuong-su-lanh-dao-chi-dao-xay-dung-quan-he-lao-dong-hai-5720 (Truy cập ngày 20/02/2022).
[20] Khoản 1 Điều 60, Hiến pháp nước
Việt Nam năm 2013.
[21] Khoản 3, Điều 60, Hiến pháp nước
Việt Nam năm 2013.
[22] Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ
XIII của Đảng, Tập 1, NXB. Chính trị quốc gia sự thật, 2021, trang 84.
[23] Hội nghị văn hóa toàn quốc lần
thứ nhất được tổ chức vào tháng 11 năm 1946. Hội nghị lần thứ hai được tổ chức
sau đúng 75 năm và điều này cho thấy nỗ lực thực hiện các chính sách về văn hóa
và thay đổi nhận thức về vị thế của văn hóa
[24] Năm 2021, Bộ Văn hóa, thể thao
và du lịch đã xây dựng và ban hành Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến
năm 2030 và được Chính phủ Phê duyệt. Xem: https://baochinhphu.vn/phe-duyet-chien-luoc-phat-trien-van-hoa-den-nam-2030-102303820.htm
[25] Báo cáo Chính trị tại Đại hội
toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: Tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn
vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các
nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xem:
Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng, Tập 1, NXB. Chính trị quốc gia
sự thật, 2021, trang 174-176. Ngoài ra, để thực hiện Nội dung này, Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khóa XIII đã thành lập
Ban Chỉ đạo xây dựng và triển khai Đề án "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm
2045" (xem thêm: https://www.moha.gov.vn/tin-tuc-su-kien/diem-tin/khoi-dong-de-an-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-46430.html).
[26]
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam.
[27]
Điều 8 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam.
[28]
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam.
[29]
Điều 5 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam
[30] Xem thêm: Nguyễn Minh Đoan, Bàn về lập hiến. Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số tháng 5/2002. (Xem tại:
https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=32 ,
truy cập ngày 20/02/2022)
[31] Khoản 1, Điều 2 Hiến pháp năm
2013 của Việt Nam.
[32] Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp năm
2013 của Việt Nam
[33] Xem quan điểm của GS Nguyễn Đăng
Dung: http://www.tcvg.hochiminhcity.gov.vn/hinhanhposttin/2015-8/baiviet3.pdf (Truy cập 15/02/2021)
[34] Điều 69 Hiến pháp năm 2013 của
Việt Nam.
[35] Điều 70 Hiến pháp năm 2013 của
Việt Nam.
[36] Ở Việt Nam hiện không thừa nhận
tam quyền phân lập vì vậy theo tác giả sẽ là không chính xác nếu nói ở Việt Nam
có “phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực” mà chỉ có “phân công, phối hợp
và kiểm soát trong việc thực hiện….các
quyền”.
[37] Từ Quốc hội (Viết tắt của từ Quốc
dân đại hội) chỉ xuất hiện trong Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946: “Được quốc
dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, Quốc hội nhận thấy rằng Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những thành
tích vẻ vang của Cách mạng và phải xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây…”.
[38] Điều 22 và Điều 23, Hiến pháp
năm 1946 của Việt Nam.
[39] Nguyễn Minh Tuấn, Phạm Thị Duyên
Thảo, Mai Văn Thắng (2017), Giáo trình Lịch
sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam. NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 470.
[40] Điều 1 và Điều 5 Luật bầu cử đại
biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2013 (xem tại:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Luat-Bau-cu-dai-bieu-Quoc-hoi-va-dai-bieu-Hoi-dong-nhan-dan-2015-282376.aspx)
.
[41] Điều 86 Hiến pháp năm 2013 của
Việt Nam.
[42] Chương V, Hiến pháp Việt Nam Dân
chủ cộng hòa năm 1959 (xem tại:
https://moj.gov.vn/vbpq/lists/vn%20bn%20php%20lut/view_detail.aspx?itemid=890).
Xem thêm: Nguyễn Minh Tuấn, Phạm Thị Duyên Thảo, Mai
Văn Thắng (2017), Giáo trình Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam. NXB. Đại học
Quốc gia Hà Nội, trang 480.
[43] Điều 98, Hiến pháp Cộng hòa XHCN
Việt Nam năm 1980.
[44] Thường được định vị là đứng thứ
2 trong Đảng sau Tổng Bí thư của Đảng (theo phân tích và đánh giá của giới
chuyên gia nghiên cứu chính trị và truyền thông).
[45] Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
[46] Điều 3, Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 2014.
[47]
Xem: Lệnh số 01/2002/L-CTN của Chủ Tịch nước: Lênh công bố về Nghị quyết của Quốc
hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 (xem tại đây: https://vanban.chinhphu.vn/default.aspx?pageid=27160&docid=10748)
[48]
Điều 113 Hiến pháp năm 2013.
[49]
Điều 114, Hiến pháp năm 2013.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.