ảnh Internet |
TS. Mai Văn Thắng
Tóm
tắt:
Bài viết phân tích làm sáng tỏ những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam như là sự kế thừa những tư tưởng, giá trị phổ quát về nhà nước pháp quyền.
Bên cạnh đó, trên cơ sở phương pháp luận duy vât biện chứng và duy vật lịch sử,
tiếp cận liên ngành và các phương pháp so sánh, phân tích quy phạm, bài viết chứng
minh làm rõ những phát triển mới mang tính đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của đất
nước trong giai đoạn phát triển mới
Từ
khóa: Nhà nước pháp quyền XHCN; đặc trưng; phát triển mới;
Việt Nam; Nghị quyết 27.
1.
Dẫn nhập
Ngày 09 tháng 11 năm 2022, Hội nghị lần thứ sáu của BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII đã ban hành Nghị quyết 27/NQ-TW về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết 27).[1] Tại Nghị quyết này, lần đầu tiên ở một băn bản chính thức của Đảng đã thống nhất nhận thức các đặc điểm của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đây là cơ sở chính trị-pháp lý quan trọng định hướng hoàn thiện, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn mới.
Có thể nói, việc thống nhất đưa ra
nhận thức về đặc điểm của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới
là nỗ lực rất lớn của Đảng, Nhà nước, bởi không ít quan niệm cho rằng, nhà nước
pháp quyền là nguyên tắc quản trị, giá trị phổ quát của nhân loại.[2] Đó
là những chuẩn mực mang tính toàn cầu và khác với các giá trị, yêu cầu đó thì
không còn đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn pháp quyền (hay nhà nước pháp quyền).
Không phủ nhận rằng, nhà nước pháp
quyền hay pháp quyền là thành đấu tranh lâu dài, bền bỉ của nhân loại chống lại
cường quyền, áp bức, vô nhân đạo và bất công. Nhưng, trên phương diện phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Mác, nhà nước, pháp luật, đạo
đức hay tôn giáo… đều là các bộ phận của cấu trúc thượng tầng và vì vậy chịu sự
chi phối, tác động và quy định bởi các điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng của xã
hội cụ thể.[3]
Nhà nước pháp quyền vì vậy mà vừa
có tính phổ quát và tính đặc thù.[4] Bài
viết này phân tích làm rõ những giá trị phổ quát và tính đặc thù của Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam dựa theo Nghị quyết số 27 và luận giải tại sao Việt
Nam lại lựa chọn những đặc thù ấy, đồng thời chứng minh làm rõ sự phát triển, sự
phù hợp, hiện đại của những đặc trưng ấy. Qua đó, bài viết chứng minh những nhận
thức mới của Việt Nam sẽ góp phần giải quyết được một số vấn đề mang tính
phương pháp luận khi vận dụng lý thuyết, mô hình nhà nước pháp quyền vào điều
kiện, bối cảnh cụ thể.
2.
Đặc điểm và những phát triển mới trong nhận thức về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam
2.1. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo
Đây là một trong những nhận thức đặc
biệt quan trọng, nhiều tính mới của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.[5]
Tính phổ quát ở chỗ phàm là nhà nước pháp quyền thì phải là nhà nước dân chủ,[6]
nghĩa là nhà nước phải thuộc về nhân dân và hình thành nên bằng con đường dân
chủ.
Tuy nhiên, sự khác biệt lớn nhất nằm
ở hai điểm là “tính Nhân dân” và “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Bàn
về tính “Nhân dân” của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tưởng như, không thấy
có sự khác biệt lớn với các tiêu chuẩn dân chủ của nhà nước pháp quyền. Tuy
nhiên, nhìn nhận từ góc độ văn hóa và chính trị, nhận thức này có sự phát triển
mới.
Tư tưởng, quan điểm pháp quyền (cả nhà
nước pháp quyền) xuất hiện và phát triển ở phương Tây.[7] Trong
nền văn minh phương Tây, dân chủ gắn liền với ý chí tự do của cá nhân. Chủ
nghĩa cá nhân phát triển mạnh mẽ và trở thành nền tảng văn hóa phương Tây.[8]
Theo đó, quyền, tự do của con người được được hiểu là quyền, tự do của mỗi cá
nhân trong xã hội. Ở phương Đông/châu Á, bao gồm cả Việt Nam, con người sống
trong tổng hòa các quan hệ, giá trị to lớn mà xã hội xây dựng, gìn giữ và bảo vệ
là cộng đồng, truyền thống gia đình, ý thức quốc gia-dân tộc và các giá trị
truyền thống khác.[9] Theo
đó, dân chủ theo các giá trị của phương Tây gắn với cá nhân và quyền và tự do của
con người đồng nghĩa với quyền, tự do của từng cá nhân, còn đối với phương Đông
dân chủ và quyền con người phải nằm trong tổng hòa các quan hệ xã hội, bao gồm
cả tính cộng đồng, gia đình, dòng tộc và cá nhân. Vì lẽ đó, nhà nước pháp quyền
phải là nhà nước “của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân”. Thuật ngữ “Nhân dân” vừa mang tính cá thể, vừa mang tính
cộng đồng, là tổng hòa các mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, gia đình, dòng
tộc, xã hội và nhà nước, vừa là quan hệ chính trị đồng thời cũng là quan hệ văn
hóa. Như vậy, nếu hiểu dân chủ gắn với nhân quyền và nhân quyền gắn với quyền,
tự do của cá nhân thì khó tương hợp được với văn hóa, nhận thức và nhân sinh
quan của các dân tộc phương Đông, trong đó có Việt Nam. Với họ, nhà nước là giá
trị, sản nghiệp chung, niềm tự hào chung, chỗ dựa chung, chuẩn mực chung mà họ
hướng tới và vì vậy, nhà nước phải phục vụ cái chung, hòa hợp được giữa cái
chung và cái riêng, giữa cộng đồng và cá nhân, giữa quan hệ chính trị và văn
hóa. Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân thể hiện được ý niệm nhà
nước thuộc về cộng đồng người, phục vụ cộng đồng người và do cộng đồng người đó
xây dựng lên. Đó là điểm khác biệt giữa nhà nước dân chủ và Nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân trong quan niệm và hệ giá trị giữa Đông và Tây. Nhà
nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân vì vậy trở thành một điểm mới, phù
hợp với Việt Nam nhưng vẫn tương thích với tính phổ quát trong đặc điểm này của
nhà nước pháp quyền.
Điểm khác biệt nữa là nhận thức Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là điểm
khác với nhận thức chung về nhà nước pháp quyền xuất phát từ nhận thức lý luận
của các học giả, giới chính trị phương Tây. Từ góc độ lý thuyết, nhiều học giả
phương Tây cho rằng, nhà nước pháp quyền cần hiện hữu tự do tư tưởng và đa
nguyên như là điều kiện để có dân chủ và tính tối thượng của pháp luật (pháp luật
không nằm dưới và không phải là công cụ của bất kỳ lực lượng nào).
Tuy nhiên, cần làm rõ, có hay không sự bình đẳng thực sự trong một
xã hội mà nguồn lực không được phân bổ đồng đều và công bằng với nhau? Trao quyền
một cách bình đẳng nhưng không trao một cách bình đẳng và công bằng các điều kiện
thực hiện (bảo đảm thực hiện) quyền có phải là một biểu hiện của chủ nghĩa hình
thức và bất công trên thực tế?!
Trong nhiều xã hội, người bình dân,
người lao động, người nghèo luôn chiếm đa số trong xã hội. Họ là người nắm giữ
rất ít hoặc hạn chế của cải và các nguồn lực xã hội khác. Trong tổ chức quyền lực,
xây dựng và thực hiện pháp luật, chỉ nhóm thiểu số giàu có mới có đủ năng lực,
điều kiện để tham gia kiến tạo chính sách, tác động lên ý chí của người dân. Sức
mạnh tài chính, sức mạnh của các công cụ truyền thông, sự ảnh hưởng xã hội…
giúp họ chiếm ưu thế tuyệt đối trong việc kiến tạo chính sách, thiết lập chuẩn
mực thông qua tác động có hệ thống lên ý chí của quảng đại quần chúng.
Thông thường, các xã hội hiện đại,
mọi người về mặt pháp lý được trao đầy đủ các quyền bình đẳng như nhau. Tuy
nhiên, các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền thì không được như vậy. Ai cũng có
quyền bầu cử tự do, nhưng điều kiện để thực hiện quyền đó không phải ai cũng có
và bình đẳng như nhau. Chỉ một nhóm thiểu số giàu có mới có được đầy đủ các điều
kiện ấy như sức mạnh tài chính, công cụ truyền thông, sức ảnh hưởng xã hội…Và
thông qua quyền tự do bầu cử, bằng sự bất bình đẳng trong điều kiện thực hiện
quyền, nhóm thiểu số sức mạnh đã tác động lên ý chí của dân chúng (bằng bộ máy truyền
thông khổng lồ và sức mạnh tài chính vượt trội) để có được những chính sách, sự
lựa chọn (do dân chúng thực hiện) cũng như các chuẩn mực phù hợp với lợi ích của
nhóm thiểu số sức mạnh.
Như vậy, pháp luật, chính sách thực
chất được làm ra bởi các nhóm thiểu số sức mạnh thông qua “bàn tay” của đông đảo
dân chúng trên danh nghĩa tự do, bình đẳng. Như vậy, chính sách được thông qua,
quyền lực được thiết lập, pháp luật được làm ra bằng con đường dân chủ, nhưng bản
chất thực sự lại ở chỗ các ý chí và lựa chọn của dân chúng đã bị tác động bởi một
nhóm người đơn giản là vì họ có được các công cụ vượt trội hơn nhiều lần để tác
động lên ý chí của quần chúng, những người được cho là quyết định nhưng không
thể làm chủ ý chí của mình do sự bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực, điều
kiện thực tế, thông tin, cung cấp thông tin. Như vậy, nền dân chủ ấy là nền dân
chủ mà cho mọi người được tuyên bố và được trao cho các quyền đầy đủ như nhau
nhưng điều kiện để hiện thực hóa các quyền năng ấy trên thực tế là không như
nhau. Bằng cách đó, nhóm giàu có và sức mạnh đã mượn ý chí của dân chúng để hợp
thức hóa ý chí của mình thông qua con đường dân chủ.
Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, mà còn đồng thời là đội tiên phong của
Nhân dân lao động và cả dân tộc, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc, gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ
Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về
những quyết định của mình.[10]
Như vậy, Đảng đại diện cho tất thảy Nhân dân lao động và cho cả dân tộc Việt
Nam chứ không đơn thuần dựa hoàn toàn trên lập trường giai cấp. Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định mục tiêu đưa đất nước đi lên CNXH – xã hội thật sự vì con người; phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ
và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới
các giá trị tiến bộ, nhân văn; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc
về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ
cho một thiểu số giàu có.[11]
Rõ ràng, với bản chất như vậy, Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo sẽ khắc phục được sự bất bình đẳng trong điều kiện thực hiện quyền.
Bên cạnh đó, trong một xã hội đa đảng, mỗi đảng lại đại diện cho nhóm lợi ích
riêng mà Nhà nước pháp quyền lại lãnh đạo bởi một đảng mà đảng đó chỉ đại diện
cho nhóm lợi ích riêng biệt hay cục bộ thì sẽ xung đột với triết lý pháp quyền,
còn khi Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện cho đại đa số người lao động và cả
dân tộc (cho tất cả) thì không có lý do để phàn nàn về tính đại diện, ý chí của
Đảng và Nhà nước, thậm chí, ở khía cạnh nhất định, đặc điểm này còn giúp cân bằng
hơn vị thế của quần chúng lao động bởi họ thường là bên “yếu thế” hơn trong tiếp
cận nguồn lực xã hội để thực hiện các quyền của mình so với các nhóm thiểu số
giàu có. Theo tác giả, đây là điểm nhân văn, tiến bộ của Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
2.2. Quyền con người, quyền công
dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật
Đây là đặc điểm vừa mang tính phổ
biến vừa đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Mục đích tối thượng của
nhà nước pháp quyền là công lý và quyền con người.[12]
Không thể có pháp quyền nếu quyền con người không được bảo đảm, bảo vệ, tôn trọng
và công nhận. Quyền con người dù có tính phổ quát,[13]tuy
nhiên, việc thực hiện và cách tiếp cận về quyền con người lại không phải giống
nhau bởi nó gắn liền với nhân sinh quan, hệ giá trị của quốc gia, dân tộc, tôn
giáo hay chủng tộc người ở khu vực nhất định. Như đã nêu ở trên, trong nền văn
hóa phương Tây, con người thường được gắn với cá nhân và quyền con người cũng gắn
với cá thể người, trong khi ở phương Đông, đặc biệt là vùng văn hóa Viễn Đông,
con người nằm trong tổng hòa quan hệ với cộng đồng, gia đình, xã hội. Vì vậy,
tuyệt đối hóa quyền cá nhân sẽ dẫn đến xung đột với hệ giá trị và truyền thống,
văn hóa phương Đông.
Trước đây, Việt Nam không thừa nhận
các quyền con người mà quyền con người lại được hiểu thông qua quyền công dân.[14] Kể
từ Hiến pháp năm 2013, Việt Nam đã công nhận các quyền con người như là các giá
trị phổ quát và tách biệt quyền con người với quyền công dân, đồng thời cam kết
công nhận, tôn trọng, bảo vệ bảo đảm và cả thúc đẩy[15]
các quyền con người, quyền công dân. Bởi vì sự tiến bộ của con người và vì lợi
ích của con người cũng là mục tiêu tồn tại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Hiện
Việt Nam đang hoàn thiện các cơ chế chính trị, pháp lý để thực hiện các cam kết
này và đây là một trong những đặc điểm cơ bản đồng thời cũng là mục tiêu, cam kết
của Việt Nam trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN trong giai đoạn mới.
2.3. Nhà nước được tổ chức và hoạt
động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật
Nhà nước pháp quyền là nhà nước đặt
mình dưới pháp luật và được tổ chức và hoạt động theo hiến pháp và pháp luật.
Chỉ khi luật pháp tối thượng thì mới có pháp quyền. Để nhà nước đặt mình dưới
pháp luật thì hiến pháp phải có vị trí tối thượng và là ý chí đồng thuận của
dân chúng. Một trong những chức năng chính của hiến pháp là kiến tạo chính quyền
và tạo cơ sở để chính quyền hoạt động, vậy nên, Việt Nam đã có những thay đổi
mang tính chất cơ bản và nền tảng theo triết lý pháp quyền đó là: trong Lời nói
đầu của Hiến pháp năm 2013 thay vì giao cho Quốc hội xây dựng Hiến pháp như các
bản hiến pháp như trước đây, lần này, Nhân dân đã được xướng tên như là chủ thể
lập hiến bằng quy định “Nhân dân Việt Nam
xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.”[16]
Như vậy, Quốc hội không phải là cơ quan có chủ quyền lập hiến mà là chủ thể “thực
hiện quyền lập hiến”.[17]
Điều này quan trọng là bởi chỉ như thế Nhà nước mới đặt mình dưới Hiến pháp, do
Hiến pháp tạo ra và vận hành theo Hiến pháp và các luật được xây dựng theo tinh
thần Hiến pháp. Hiến pháp là luật cao nhất và khi Hiến pháp có hiệu lực tối cao
thì mới có cơ hội cho pháp luật có được vị trí tối thượng – tiêu chí cơ bản và
phổ quát của nhà nước pháp quyền. Vì vậy, những thay đổi của Hiến pháp năm 2013
đã tạo tiền đề cơ bản và quan trọng nhất cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
Không chỉ tổ chức và hoạt động trên
cơ sở Hiến pháp và các luật được làm ra trên cơ sở Hiến pháp, Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam còn khẳng định quản lý xã hội bằng pháp luật. Đây là sự bổ sung
và khẳng định cho nhận thức thay đổi về vị trí của Hiến pháp và tính tối thượng
của pháp luật. Sở dĩ cần có khẳng định này là bởi, trước đây, không chỉ có pháp
luật, Việt Nam còn quản lý xã hội bằng rất nhiều phương thức khác. Việc khẳng định
này là sự bảo đảm chắc chắn rằng, ở Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, luật
pháp là nền tảng để quản lý xã hội và đây cũng là sự bảo đảm cho tính pháp quyền
của Nhà nước Việt Nam XHCN.
2.4. Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ
quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
Đây là một trong những đặc điểm mang
nhiều tính chất đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Vừa là sự chọn lọc
những tinh túy của phương thức, mô hình tổ chức quyền lực và quản trị quốc gia
tiến bộ trên thế giới nhưng vẫn giữ được những nét đặc thù trong điều kiện Việt
Nam.
Đã có nhiều tranh luận khoa học về
nhận thức “Quyền lực nhà nước là thống nhất”. Theo nhiều tác giả, cần làm rõ,
quyền lực nhà nước là thống nhất, vậy thống nhất ở đâu? Thống nhất ở Quốc hội
hay ở Nhân dân!?[18]
Nếu quyền lực nhà nước thống nhất ở
Quốc hội thì không thể giải thích được tại sao trong Hiến pháp hiện hành lại
không còn quy định “Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” (tại Điều 83 Hiến pháp năm 1992) và
lần đầu tiên thừa nhận quyền lập hiến và quyền lập pháp là hai quyền riêng biệt.
Điều này cũng phù hợp với Lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013 khi xác nhận Nhân
dân là chủ thể xây dựng Hiến pháp (chủ thể quyền lập hiến).
Quyền lập hiến là quyền kiến tạo ra
hiến pháp và qua đó tạo ra bộ máy nhà nước để vận hành quyền lực, thực thi các
nguyên tắc và các quy định của hiến pháp. Quốc hội là cơ quan đặc thù trong mô hình
Việt Nam, là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Theo ủy thác của Hiến pháp, Quốc hội “thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp” [19]
mà cụ thể là tiến hành các hoạt động “Làm
Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật” và một số chức
năng, nhiệm vụ khác được ủy thác.[20]
Với quy định này, về mặt thực tế,
Quốc hội vẫn là cơ quan làm hiến pháp chứ không chỉ là cơ quan làm luật. Tuy
nhiên, về mặt quy định, Quốc hội chỉ là cơ quan được giao thực hiện quyền lập hiến mà thôi chứ không phải là cơ quan nắm giữ hay sở hữu quyền này.
Quyền lực tập trung ở Hiến pháp – ở Nhân dân – chủ thể giữ quyền lập hiến.
Điểm khác biệt so với mô hình tập
quyền XHCN trước đây là quyền lực không tập trung vào một cơ quan mà tập trung ở
Nguồn cội của nó - Hiến pháp – chủ quyền nhân dân. Các cơ quan như Quốc hội,
Chính phủ, tòa án nhân dân… chỉ là cơ quan thực hiện quyền chứ không phải là cơ
quan nắm giữ các quyền này. Do đặc thù về mô hình tổ chức quyền lực, Quốc hội Việt
Nam vẫn là “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”. Vì vậy, để phù hợp với tính
phổ quát của nhà nước pháp quyền trong việc phân chia quyền lực, thì dù thống
nhất ở gốc quyền lực, nhưng việc tổ chức thực hiện quyền lực thì cần phải được phân
công chặt chẽ, phối hợp hiệu quả và kiểm soát trong việc thực hiện quyền (tác giả
để chữ đậm).[21]
Chủ thể cao nhất nhân danh sự ủy thác của Nhân dân thực hiện quyền phân công,
điều phối việc phối hợp và thiết lập cơ chế kiểm soát thực hiện quyền chính là
Quốc hội và cơ quan này thực hiện quyền này thông qua nhiệm vụ “thực hiện quyền
lập hiến, quyền lập pháp”.
So sánh với Hiến pháp năm 2013, Nghị
quyết 27 đã làm rõ hơn các yêu cầu như “phân công rành mạch”, “phối hợp chặt chẽ”
và “kiểm soát hiệu quả”. Những tính từ này vừa có mục đích nhấn mạnh nhưng cũng
là tiền đề chính trị, yêu cầu quan trọng cần đặc biệt lưu ý trong xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Tuy vậy, việc
kiểm soát thực hiện quyền lực vẫn đang là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong
thời gian tới và đây cũng là nhiệm vụ trong tâm được xác định trong thời gian tới
ở Việt Nam.
2.5. Hệ thống pháp luật dân chủ,
công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai,
minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán
Nói về nhà nước pháp quyền không thể
không nhắc tới pháp luật và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng không ngoại
lệ. Pháp luật trong nước pháp quyền trước hết phải là các chuẩn mực pháp lý được
làm ra bằng con đường dân chủ và là sản phẩm của ý chí đích thực của người dân.
Theo Geofrey de Q. Walker, nhà nước pháp quyền phải có tính phù hợp, có nghĩa
là cần phải được xây dựng một cách dân chủ và nội dung của pháp luật phải phản
ánh những quy tắc dân chủ cơ bản được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi.[22] Bên
cạnh đó, mục tiêu tối thượng của Nhà nước pháp quyền là công lý và quyền con
người nên chỉ có thể có pháp luật dân chủ mới có thể bảo vệ được công lý và quyền
con người do tất cả đều nằm dưới sự ngự trị của pháp luật dân chủ, kể cả nhà nước.
Bên cạnh yếu tố dân chủ, pháp luật
trong Nhà nước pháp quyền XHXN Việt Nam phải công bằng, nhân đạo. Đây cũng là
các yêu cầu mang tính phổ quát về pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Tuy
nhiên, có lẽ, từ định hướng phát triển của Việt Nam, tính công bằng và nhân đạo
ở đây có mục tiêu hướng tới sự công bằng hơn trong tiếp cận nguồn lực xã hội, sự
công bằng hơn trong thụ hưởng thành quả phát triển của đất nước và công bằng
hơn đối với các nhóm yếu thế, những người lao động đông đảo trong xã hội vốn
luôn trong trạng thái bất lợi hơn trong xã hội cạnh tranh khốc liệt và thường không
lành mạnh, bất cân xứng quyền lực và bất bình đẳng.
Đối với Việt Nam, một đất nước đang
trong tiến trình đổi mới, cải cách, hội nhập với nhiều thay đổi nhanh chóng và
cùng với đó là sự bất ổn định của thế giới hiện đại nhiều biến động, thì yêu cầu
về một nền pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai,
minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán cũng
là những yêu cầu cần thiết cho nền pháp luật trong điều kiện đặc thù của Việt
Nam. Vì vậy, đây không chỉ là đặc trưng của pháp luật mà còn là yêu cầu tiên
quyết cần đặt ra trong việc hoàn thiện pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
2.6. Độc lập của tòa án theo thẩm
quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Độc lập tư pháp là một trong những
đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền bởi lẽ, tòa án luôn được coi là chiếc
khiên vững chắc để bảo vệ công lý, quyền con người và tính tối thượng của pháp
luật. Tư pháp không độc lập thì không thể bảo vệ được pháp luật, công lý và quyền
con người và những điều cơ bản này không được bảo vệ thì không có pháp quyền.
Trong mô hình tổ chức quyền lực của
Việt Nam trước đây, hệ thống tòa án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân dù được tuyên
bố là độc lập, khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật, tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn
còn nhiều tranh luận liên quan đến địa vị và tính độc lập của thẩm phán, hội thẩm
nhân dân và hệ thống tư pháp. Nhưng, để xây dựng thành công được Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam, tiếp tục hoàn thiện nền tư pháp phải là một trong những
nhiệm vụ cấp bách.[23]
Hiện nay, các giải pháp và nhiệm vụ trọng tâm được Nghị quyết số 27 xác định
đúng và trúng. Để tòa án, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập thực sự, cần
hàng loạt những cải cách xa hơn nữa, trong đó, trong điều kiện của Việt Nam,
trước hết, cần phải thiết kế, tổ chức hệ thống tư pháp sao cho bảo đảm sự độc lập
của tòa án theo thẩm quyền xét xử, tiến tới loại bỏ quan hệ hành chính giữa các
cấp tòa án với nhau. Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật là yêu cầu bắt buộc và để có được sự độc lập thực sự, cần có hệ thống
các bảo đảm về pháp lý, bảo đảm an ninh, an toàn cho cá nhân và người thân, bảo
đảm về mức sống, bảo đảm về chính trị và các bảo đảm khác.[24]
2.7. Tôn trọng và bảo đảm thực hiện
các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên,
bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế
Đây cũng là đặc điểm vừa mang tính
phổ quát và mang tính đặc thù của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Pháp luật
trong nhà nước pháp quyền phải phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế
là nhận thức phổ biến. Tuy nhiên, có nhiều các chuẩn mực quốc tế không phù hợp
với điều kiện văn hóa, kinh tế, chính trị và định hướng phát triển của Việt Nam
và vì vậy, để bảo vệ chủ quyền quốc gia, chủ quyền nhân dân nhưng đồng thời
cũng thể hiện là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam
tuân thủ và thực hiện các cam kết, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên hoặc bên cam kết. Điều này không trái với nguyên tắc chung đã được xác lập
bởi Nhân dân là chủ thể kiến tạo quyền lực và là chủ thể ủy thác, trao quyền
thì các thiết chế quyền lực mới có cơ sở pháp lý thảo luận, đàm phán, gia nhập
hay phê duyệt các điều ước quốc tế. Vì lẽ đó, các điều ước quốc tế không thể và
không nên đi ngược lại với ý chí của Nhân dân, xâm phạm lợi ích của Nhân dân, của
quốc gia, dân tộc. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là yêu cầu cơ bản nhằm bảo đảm
tính tối thượng của Hiến pháp – Luật cao nhất – hiện thân của chủ quyền nhân
dân.
Như vậy, trong xu thế hội nhập và khẳng
định là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam thống nhất nhận
thức đặc điểm của Nhà nước pháp quyền và cam kết tôn trọng và bảo đảm thực thi
mọi điều ước quốc tế nhưng với điều kiện những điều nước đó Việt Nam phải là
thành viên và đồng thời bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc trên hết, trước hết
trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Điều
này vừa phù hợp với chuẩn mực chung đồng thời cũng nhất quán với quan điểm về
nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và tính tối thượng của Hiến
pháp (hiện thân rõ nhất của chủ quyền nhân dân) như là đặc điểm cơ bản và phổ
quát của nhà nước pháp quyền nói chung.
3.
Khuyến nghị và kết luận
Nghị quyết 27 ra đời là minh chứng
cho những nỗ lực và quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN vừa có tính phổ quát lại vừa có tính đặc
thù, phù hợp với điều kiện văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội Việt Nam. Những
đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam không xung đột với tính phổ biến
mà ở nhiều khía cạnh, theo quan điểm và đánh giá của tác giả, là nhân văn và khắc
phục được một số vấn đề của lý thuyết về nhà nước pháp quyền khi vận dụng vào
điều kiện và xã hội cụ thể. Có thể kể đến như những vấn đề liên quan đến xây dựng
và thực hiện pháp luật trong điều kiện bình đẳng về trao quyền nhưng bất bình đẳng
trong điều kiện bảo đảm thực hiện quyền. Hay, ở khía cạnh khác, cách tiếp cận
quyền con người từ góc độ văn hóa, hệ giá trị cũng sẽ làm cho sự khác biệt
trong thực tiễn giữa các giá trị Tây và Đông mà ở đó Việt Nam là bộ phận. Ở góc
độ này, nhận thức về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã có những tiếp cận mới
và phù hợp.
Tuy vậy, để tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN thì còn nhiều việc phải làm. Nghị quyết 27
đã xác định được nhiều nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp đột phá. Nhưng ở góc độ
lý luận, có lẽ, việc tiếp tục nghiên cứu về cơ chế, mô hình bảo vệ Hiến pháp là
cần thiết bởi sự tối thượng của pháp luật phụ thuộc nhiều vào sự tối thượng của
Hiến pháp. Hơn nữa, Hiến pháp là hiện thân của ý chí, chủ quyền Nhân dân, vì thế,
nếu không được bảo vệ bởi cơ chế bảo hiến chuyên nghiệp, độc lập và phù hợp thì
tính bền vững của Nhà nước pháp quyền XHCN sẽ bị thử thách. Ngoài ra, hoàn thiện
cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả trong điều kiện Việt Nam và phát huy dân chủ
XHCN trong xã hội hiện đại vẫn tiếp tục là nhiệm vụ trọng tâm và quan trọng
trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn tới.
Tài
liệu tham khảo
1. Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
2. Nghị quyết số 27/NQ-TW Hội nghị lần thứ sau
của BCH Trung ương khóa XIII về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, ban hành ngày 09/11/2022.
3. Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật. Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến: Một số
tiểu luận của các học giả nước ngoài. Sách tham khảo. NXB. Lao động xã hội,
2012.
4. Đào Trí Úc. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam: Những giá trị, đặc trưng phổ quát và
tính đặc thù. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 02+03 (450+451) tháng 2/2022.
5. Đào Trí Úc, Giáo trình Nhà nước pháp quyền. NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
6. Geofrey de Q. Walker: The Rule of Law:
Foudation of Constitutional democracy, Melbourne: Melboure University Press,
1988.
7. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh
Tùng, Giáo trình Lý luận và pháp luật về
quyền con người. NXB Chính trị Quốc gia, 2015.
8. Võ Khánh Vinh (Chủ biên), Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam đến
năm 2023, tầm nhìn 2045: Những vấn đề lý luận và thực tiễn. NXB Chính trị
quốc gia sự thật, 2022.
9. Mai Văn Thắng, Bảo đảm sự độc lập của thẩm phán ở Liên bang Nga và một số gợi ý cho
công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta: http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207865
10. https://archive.unu.edu/unupress/asian-values.html.
11. https://vanhoavaphattrien.vn/nhung-dac-trung-cua-nen-van-hoa-viet-nam-a7008.html.
* Giảng viên chính, Trường Đại học
Luật, ĐHQGHN; email: thangmv@vnu.edu.vn
[1] Xem tại đây: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-27-nqtw-ngay-09112022-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-ve-tiep-tuc-xay-dung-va-9016 (Truy cập 28/3/2023).
[2] Xem thêm: Đại học Quốc gia Hà Nội,
Khoa Luật. Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp
hiến: Một số tiểu luận của các học giả nước ngoài. Sách tham khảo. NXB. Lao
động xã hội, 2012.
[3] Giáo trình Triết học Mác-Lênin
(tái bản có chỉnh sửa, bổ sung). NXB Chính trị quốc gia, 2011. Tr. 448-449.
[4] Đào Trí Úc, Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam: Những giá trị, đặc trưng phổ quát và tính đặc thù. Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 02+03 (450+451) tháng 2/2022.
[5] Xem: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-27-nqtw-ngay-09112022-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-ve-tiep-tuc-xay-dung-va-9016 (Truy cập 28/3/2023)
[6] Đào Trí Úc, tlđd, xem: http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=211009 (Truy cập 28/3/2023)
[7]
Xem: GS.TSKH. Đào Trí Úc, Giáo trình Nhà nước pháp quyền. NXB. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2015. tr 30.
[8] Xem: https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra
cuu/lich_su_phat_trien_chu_nghia_ca_nhan_trong_the_ky_21.html
[9] Xem: Introduction: "Asian
values" and Democracy in Asia https://archive.unu.edu/unupress/asian-values.html; xem: Những đặc trưng của Văn
hóa Việt Nam tại: https://vanhoavaphattrien.vn/nhung-dac-trung-cua-nen-van-hoa-viet-nam-a7008.html
[10] Xem Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của
Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và Điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua ngày 19 tháng 01 năm 2011.
[11] Xem bài viết của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” tại: https://moha.gov.vn/tin-noi-bat/bai-viet-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-ve-con-duong-di-len-cnxh-46173.html
[12] Xem thêm cuốn Geofrey de Q.
Walker: The Rule of Law: Foudation of Constitutional democracy, Melbourne:
Melboure University Press, 1988.
[13] Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao,
Lã Khánh Tùng, Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người. NXB Chính trị
Quốc gia, 2015, trang 45.
[14] Ở tất cả các bản Hiến pháp từ Hiến
pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi 2001) của Việt Nam đều không thừa nhận
quyền con người tách biệt với quyền công dân.
[15] Xem tại: https://vtv.vn/giao-duc/dua-quyen-con-nguoi-vao-giao-duc-cac-cap-20221210013230506.htm (truy cập 28/3/2023)
[16] Lời nói đầu Hiến pháp Việt Nam
năm 2013.
[17] Xem thêm: Mai Văn Thắng, Hiến pháp pháp quyền và những vấn đề đặt ra
đối với việc hoàn thiện pháp luật và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Trong Chiến lược phát triển pháp luật Việt Nam đến năm 2023, tầm nhìn 2045: Những
vấn đề lý luận và thực tiễn. GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên). NXB Chính trị quốc
gia sự thật, 2022, trang 275-276.
[18] Xem quan điểm của GS Nguyễn Đăng
Dung: http://www.tcvg.hochiminhcity.gov.vn/hinhanhposttin/2015-8/baiviet3.pdf (Truy cập 15/02/2021)
[19] Điều 69 Hiến pháp năm 2013 của
Việt Nam.
[20] Điều 70 Hiến pháp năm 2013 của
Việt Nam.
[21] Ở Việt Nam hiện không thừa nhận
tam quyền phân lập vì vậy theo tác giả sẽ là không chính xác nếu nói ở Việt Nam
có “phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực” mà chỉ có “phân công, phối hợp
và kiểm soát trong việc thực hiện….các
quyền”.
[22]
Geofrey de Q. Walker, tlđ.
[23] Nghị quyết 27/NQ-TW đã xác định
rõ hàng loạt nội dung và nhiệm vụ của tòa án: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-27-NQ-TW-2022-tiep-tuc-xay-dung-Nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-giai-doan-moi-541092.aspx
[24] Tham khảo thêm: Mai Văn Thắng, Bảo đảm sự độc lập của thẩm phán ở Liên bang
Nga và một số gợi ý cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta: http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=207865
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.