Thứ Bảy, 16 tháng 1, 2021

Phòng, chống tham nhũng trong bối cảnh phát triển Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư ở Việt Nam hiện nay: Cơ hội, thách thức và một số vấn đề đặt ra

ảnh: internet
TS. Mai Văn Thắng
Khoa Luật, ĐHQGHN
ThS.NCS. Trịnh Thăng Quyết
NCS. Trường ĐH Luật Hà Nội
Nguồn: Bài viết Hội thảo khoa học quốc tế
"Quản trị tốt và phòng, chống tham nhũng: 
Cơ hội và thách thức trong kỷ nguyên số"
Hà Nội, tháng 10 năm 2020 

Bài viết này được chúng tôi chuẩn bị để công bố trên Hội thảo khoa học quốc tế do Khoa Luật phối hợp với Trung tâm Tư pháp Hình sự và Nhân quyền thuộc Trường Luật thuộc Đại học Cork (Ireland) và Trường Luật, Chính trị và Xã hội học, Đại học Sussex (Anh) tổ chức vào các ngày 27 và 28 tháng 10 năm 2020 bằng hình thức bán trực tuyến (trực tuyến trên nền tảng ứng dung Zoom).

Trân trọng giới thiệu cho những ai quan tâm./.

Tóm tắt: Phòng, chống tham nhũng (PCTN) là một trong những chính sách lớn, quyết tâm chính trị mạnh mẽ nhất của Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam hiện nay. Tuy vậy pháp luật, cơ chế, biện pháp phòng, chống tham nhũng hiện nay Việt Nam được cho là chưa thích ứng với sự phát triển và những quyết sách lớn thể hiện quyết tâm đi trước, đón đầu những thành tựu của cuộc CMCN 4.0. Rõ ràng, việc chưa nhận diện, dự liệu đầy đủ cho một bối cảnh xã hội như thế sẽ làm cho công cuộc phòng, chống tham nhũng của Việt Nam thiếu hiệu quả, thiếu tính hiện đại, bền vững và đặc biệt sẽ bỏ lỡ cơ hội tận dụng CMCN 4.0 kiến tạo cơ chế hữu hiệu phòng, chống tham nhũng của Việt Nam trong bối cảnh các cơ chế khác chưa phát huy hiệu quả ở nước ta. Vì vậy, việc phân tích, nhận diện những cơ hội, thách thức mà CMCN 4.0 đã và có thể đem đến cho công cuộc PCTN của Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi trên cơ sở đó có thể đưa ra những đề xuất, giải pháp phù hợp góp phần hoàn thiện pháp luật, cơ chế, biện pháp giúp công cuộc phòng, chống tham nhũng ở nước ta phù hợp hơn với bối cảnh mới, hiệu quả và thành công bền vững như mong đợi.

Từ khóa: Phòng, chống tham nhũng; CMCN.40; Việt Nam; cơ hội; thách thức.


1. Dẫn nhập

Trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ số, internet vạn vận, người máy thông minh… là những hiện tượng phổ biến toàn cầu, len lỏi, xâm nhập mạnh mẽ vào mọi góc cạnh của đời sống xã hội hiện đại. Và đó cũng là dấu hiệu của thời đại mới trong tiến trình phát triển của xã hội loài người được gọi là kỷ nguyên của cuộc CMCN 4.0.[1]

Việt Nam không là ngoại lệ. Ngược lại nhiều lo ngại và những bi quan, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam nhận định sự phát triển này là tất yếu khách quan, thể hiện quyết tâm lớn, đưa ra nhiều quyết sách ứng phó và tận dụng thành tựu của cuộc CMCN lần này. Tiêu biểu có thể kể đến, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư; Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 36a/NQ/CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử; Nghị quyết số 34/NQ-CP ngày 07/4/2017 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2017; Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0”; Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 04/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0”

Không chỉ trên phương diện kinh tế-xã hội, CMCN 4.0 cùng với những biểu hiện của nó còn ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc phòng, chống tham nhũng của Việt Nam. Rõ ràng, việc xây dựng Chính phủ điện tử, internet kết nối vạn vật, chuyển đổi số…chắc chắn sẽ mang đến những thuận lợi vô cùng lớn nhưng cùng với đó là những thách thức không nhỏ cho hoạt động mang tính quyết định đến sự tồn vong của chế độ, niềm tin của người dân và cơ hội phồn thịnh của quốc gia – phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, ở góc độ này, các văn bản chính thống quan trọng trên của Đảng và Nhà nước chưa có những nhận diện đầy đủ và thấu đáo.

Có thể nói, Việt Nam có mô hình phòng, chống tham nhũng khá đặc thù và khác với nhiều quốc gia trên thế giới. Cơ chế kiểm soát quyền kể cả bên trong và bên ngoài, dù đã có những hoàn thiện, nỗ lực, nhưng còn yếu, tính hiệu quả chưa cao. Các thành tựu của công cuộc này có được chủ yếu nhờ vào sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là của lãnh đạo cao cấp của Đảng. Do đó, sự xuất hiện của công nghệ số, internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo… sẽ mang đến một số cơ hội mới để Việt Nam có được cơ chế phòng, chống tham nhũng hiệu quả. Tuy vậy, cơ hội luôn kèm thách thức. Bài viết này, sẽ phân tích những ảnh hưởng và tác động của những yếu tố của CMCN 4.0 đến cuộc chiến phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam và trên cơ sở đó đưa gia những khuyến nghị góp phần phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả và tận dụng thành công những thành tựu của CMCN 4.0 này phục vụ cuộc chiến chống tham nhũng vốn rất đặc thù của Việt Nam hiện nay.

2. Nhận diện những cơ hội

CMCN 4.0 mở ra cho Việt Nam và nhiều nước trên thế giới cơ hội vàng trong PCTN nhờ việc áp dụng và kết nối công nghệ số trong quản lý nhà nước, làm hạn chế và giảm thiểu tham nhũng, cụ thể là:

Thứ nhất, việc ứng dụng những thành tựu của CMCN 4.0 góp phần thực hiện tốt hơn việc công khai, minh bạch thông tin về tổ chức, hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; thực hiện Chính phủ điện tử, công khai hóa các thủ tục hành chính trên Cổng thông tin điện tử

Mặc dù Luật PCTN năm 2018, Luật Tiếp cận thông tin và một số văn bản của Chính phủ quy định các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai, minh bạch thông tin trong nhiều lĩnh vực gắn với trách nhiệm giải trình; nhất là trong các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí[2]; tuy nhiên, hiện nay, nhiều quy định của pháp luật về công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa được thực hiện đầy đủ; trách nhiệm giải trình thực hiện chưa nghiêm; vẫn còn tình trạng lạm dụng quy định về bí mật nhà nước để không công khai, minh bạch[3]. Việc ứng dụng những thành tựu của CMCN 4.0 sẽ giúp cho các cơ quan thực hiện tốt việc công khai, minh bạch những nội dung thông tin về hoạt động trên một số lĩnh vực bằng việc đăng tải trên Trang thông tin điện tử, Tạp chí điện tử...; do đó, tăng khả năng tiếp cận thông tin của người dân và doanh nghiệp, hạn chế tham nhũng do độc quyền về thông tin hoặc mất chi phí không hợp pháp để có được thông tin.

Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để thực hiện điều này. Năm 2018, chỉ số Chính phủ điện tử của Việt Nam được Liên hợp quốc xếp hạng thuộc nhóm các nước có chỉ số phát triển cao, đứng thứ 88/193 quốc gia. Đến năm 2020, Việt Nam tăng 2 bậc, xếp hạng thứ 86/193 quốc gia, 24/47 châu Á và 6/11 Đông Nam Á[4]. Đến hết năm 2018, 99,7% dân số được cung cấp vùng phủ sóng, trong đó vùng phủ 3G, 4G phục vụ trên 98% dân số bởi Viettel, Vinaphone, MobiFone. Tổng số thuê bao di động đạt trên 134,5 triệu thuê bao; các tiền đề cho việc phát triển dịch vụ Internet vạn vật tại Việt Nam được đảm bảo. Hạ tầng viễn thông băng thông rộng, nhất là mạng 4G được triển khai rộng rãi[5]. Đây là những điều kiện hết sức thuận lợi để Việt Nam phát triển Chính phủ điện tử, thúc đẩy công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, góp phần giảm thiểu tham nhũng trong thực hiện các thủ tục này.

Thứ hai, ứng dụng công nghệ số sẽ giúp kiểm soát được tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong tương lai

          Việc kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong PCTN. Trong nền công vụ hiện đại, việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn một mặt góp phần minh bạch hóa hoạt động hệ thống công vụ, ngăn chặn, phòng ngừa những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì động cơ vụ lợi, mặt khác giúp ngăn chặn sự dịch chuyển bất hợp pháp, tẩu tán tài sản, góp phần phòng ngừa, đấu tranh PCTN. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Cơ sở dữ liệu điện tử về quản lý tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn sẽ giúp ích rất nhiều cho việc quản lý tài sản, thu nhập của các cán bộ này, từ đó góp phần phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, cụ thể là:

          Một là, Cơ sở dữ liệu điện tử về quản lý tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn sẽ tổng hợp, cập nhật toàn bộ thông tin về tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Trong trường hợp có sự biến động, tăng về tài sản, thu nhập của họ (theo quy định của Luật PCTN năm 2018 của Việt Nam là từ 300 triệu đồng trở lên) thì người kê khai phải có trách nhiệm giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập. Đây cũng là cơ sở để các nhà quản lý xác minh tài sản, thu nhập của họ, vì Cơ quan có thẩm quyền có thể kiểm tra, xác minh những nội dung trong bản kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn theo nguyên tắc ngẫu nhiên, định kỳ hoặc kiểm tra đột xuất khi có những dấu hiệu biến động tài sản bất thường của người có chức vụ, quyền hạn. Trên cơ sở đó, có thể xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp không kê khai, chậm hoặc kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.

          Hai là, trong tương lai, việc công khai bản kê khai tài sản của người có chức vụ, quyền hạn có thể thực hiện trên không gian mạng để nhân dân được biết và giám sát việc kê khai tài sản của người có chức vụ, quyền hạn. Nhất là việc công khai này cần được thực hiện tại thời điểm ứng cử, bầu cử hoặc trước khi được bổ nhiệm đối với những người có chức vụ, quyền hạn. Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới cho thấy, biện pháp công khai tài sản, thu nhập của một số cá nhân ra tranh cử hay trước khi được bổ nhiệm một vị trí nào đó trong bộ máy nhà nước giúp cho xã hội có được những thông tin cần thiết và theo dõi sự biến động về tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn. Từ đó, giúp ngăn chặn được những hành vi trục lợi, rửa tiền hoặc những hoạt động phi pháp khác, góp phần tích cực trong công tác đấu tranh PCTN. Tuy nhiên, Nhà nước cần có những biện pháp bảo đảm an toàn và các quyền lợi khác liên quan đến việc phải công khai bản kê khai tài sản, thu nhập trên không gian mạng cho người có chức vụ, quyền hạn.

          Ba là, ứng dụng thành tựu CMCN 4.0 có thể tạo ra một cơ chế để tiếp nhận thông tin khiếu nại, tố cáo nhanh chóng, hiệu quả và bảo vệ người khiếu nại, tố cáo, cung cấp thông tin liên quan đến việc kê khai tài sản, thu nhập có dấu hiệu không trung thực của người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên, khi tiếp nhận những thông tin về kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, cơ quan có thẩm quyền phải tổ chức kiểm tra, xác minh nghiêm túc đối với các trường hợp có tố cáo người thuộc diện phải kê khai tài sản không trung thực trong việc kê khai. Đồng thời, cơ quan có thẩm quyền phải có phương án bảo vệ thông tin và bảo đảm sự an toàn cho người cung cấp thông tin.

          Thứ ba, việc ứng dụng thành tựu của CMCN 4.0 giúp hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội và PCTN ngày càng đồng bộ, thống nhất và hoàn thiện hơn; tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các chính sách, pháp luật này, góp phần hạn chế những "kẽ hở", những "lỗ hổng" khiến tham nhũng phát sinh, tăng tính khả thi khi áp dụng trên thực tiễn.

Ban Kinh tế Trung ương đã từng nhận xét CMCN 4.0 thay đổi hoạt động lập pháp theo hướng "lập pháp đang bị thử thách ở một mức độ chưa từng có tiền lệ, thay đổi từ cách tiếp cận, thiết lập, sửa đổi, thực thi pháp luật đến thời gian nghiên cứu xây dựng khung khổ pháp lý hay thiết lập các quy tắc ứng xử chung bị rút ngắn"[6]. Những thay đổi này có thể xảy ra ở mọi công đoạn làm luật và mang lại lợi ích không chỉ cho Chính phủ mà cả người dân, doanh nghiệp. Ví dụ: Nếu trước đây, khi xây dựng một dự thảo Luật, các cán bộ phải trực tiếp rà soát các quy định của Luật hoặc các văn bản này để đảm bảo không bị mâu thuẫn, chồng chéo với các Luật hoặc văn bản pháp luật có liên quan trước đó và việc rà soát này chủ yếu được thực hiện thủ công, phụ thuộc rất lớn vào trình độ, kỹ năng của người rà soát, phải mất rất nhiều thời gian và hiệu quả có thể hạn chế thì hiện nay, với việc áp dụng các thành tựu của CMCN 4.0 sẽ giúp cho việc rà soát hiệu quả hơn, tiến hành trong thời gian ngắn hơn, giúp phát hiện những quy định chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ, có nhiều kẽ hở dễ bị lợi dụng để tham nhũng, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.

Ở một ví dụ khác, để khắc phục tình trạng lấy ý kiến đối với dự thảo luật còn mang tính hình thức, chất lượng ý kiến đóng góp chưa cao, nhất là đối với những vấn đề mới, phức tạp, còn nhiều tranh luận, thì việc ứng dụng công nghệ số để đăng tải dự thảo Luật và có những phần mềm để xử lý các thông tin nhanh chóng sẽ cho phép người dân được tham gia tích cực hơn vào quá trình xây dựng dự thảo Luật. Thông qua các sự kiện này người dân có nhiều cơ hội tham gia góp ý kiến với Chính phủ để bày tỏ mong muốn, tâm tư, nguyện vọng của mình, giúp giám sát và phản biện đối với các chính sách mà các cơ quan công quyền đưa ra, từ đó bảo đảm tính khả thi, công khai, minh bạch, chống “lợi ích nhóm” trong quá trình xây dựng cơ chế, chính sách. Về phía Chính phủ, Quốc hội, các cơ quan này hoàn toàn có thể hưởng lợi rất nhiều từ các phần mềm thông minh, cho phép nhận và lọc các ý kiến theo từng nội dung để tiếp nhận các ý kiến góp ý dự thảo Luật. Nhiều ý tưởng mới, chính sách mới và thực tiễn mới rất có thể phát sinh trong quá trình xin ý kiến này, giúp Chính phủ, Quốc hội tiếp cận và hoàn thiện dự thảo Luật, đưa ra các chính sách phù hợp, kịp thời và khả thi hơn.

Thứ tư, CMCN 4.0 giúp phòng, chống tham nhũng trong công tác cán bộ

Công nghệ số mở ra những khả năng mới trong kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền do nó thiết lập và công khai hóa, minh bạch hóa bằng cách tăng tính tự động hóa, chính xác hóa các quy trình, thủ tục trong việc tuyển dụng, bố trí, quản lý, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, phong, thăng cấp bậc hàm, giới thiệu ứng cử, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, kiểm tra, giám sát và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phần mềm quản lý và bắt buộc các cơ quan, tổ chức, đơn vị, các cá nhân, người đứng đầu thực hiện công khai, minh bạch theo đúng quy trình điện tử sẽ bảo đảm phát hiện và ngăn chặn các hành vi gian lận và thông đồng trong công tác cán bộ, đồng thời quy được rõ trách nhiệm của từng cấp, từng người ở từng khâu, từng bước trong công tác cán bộ. Các yêu cầu về quy trình, thủ tục, điều kiện thông qua quản lý bằng công nghệ điện tử sẽ cho thấy công tác cán bộ được thực hiện bởi những cấp nào (cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị; thành viên cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị; người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, địa phương, cơ quan, đơn vị, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị được giao thực hiện công tác cán bộ ở các cấp, cán bộ tham mưu, đề xuất), sai sót do chủ thể nào thực hiện và vì sao.

Vì vậy, việc sử dụng thành tựu CMCN 4.0 sẽ thiết lập các cơ chế, biện pháp kiểm soát, giám sát hiệu quả, thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác cán bộ; phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước, nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán bộ. Cụ thể là, công nghệ số giúp: (1) Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các quy định, quy chế về công tác cán bộ; các quy định cụ thể trách nhiệm của tập thể, cá nhân; bảo đảm quy trình, thủ tục dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch trong từng khâu về công tác cán bộ. (2) Giúp rà soát các trường hợp những người có quan hệ gia đình (vợ, chồng, bố, mẹ của vợ hoặc chồng, con, anh chị em ruột) cùng đảm nhiệm các chức danh có liên quan như: Bí thư, phó bí thư, trưởng ban tổ chức, chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra cùng cấp uỷ; chủ tịch Ủy ban nhân dân và người đứng đầu cơ quan nội vụ, thanh tra cùng cấp ở một địa phương; thành viên trong cùng ban cán sự đảng, đảng đoàn; người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu trong cùng địa phương, cơ quan, đơn vị. (3) Giúp phát hiện ra những tiêu chí, tiêu chuẩn, điều kiện, nhận xét, đánh giá mang tính áp đặt, không đúng bản chất, không đúng sự thật nhằm vụ lợi hoặc có lợi cho nhân sự trong quá trình tham mưu thực hiện quy trình công tác cán bộ. (4) Tạo ra cơ chế tiếp nhận và xử lý các đơn, thư phản ánh, tố cáo nhân sự có hành vi chạy chức, chạy quyền hiệu quả hơn so với cách thức truyền thống...

Thứ năm, CMCN 4.0 giúp KSQL và phát hiện tham nhũng trong công tác quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, đầu tư công, đất đai, khoáng sản

Ngân sách, tài sản công, đầu tư công, đất đai, khoáng sản là những lĩnh vực rất dễ xảy ra tham nhũng. Thời gian qua, tình trạng vi phạm quy định pháp luật, tiêu chuẩn, định mức, chế độ trong quản lý ngân sách, tài sản nhà nước gây lãng phí vẫn còn xảy ra. Việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp còn lỏng lẻo, xảy ra nhiều vi phạm. Thủ đoạn tham nhũng chủ yếu là giấu bớt và định giá trị tài sản, đất đai thấp hơn giá trị thực khi cổ phần hóa hoặc bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp([7]); lập các hợp đồng mua bán, vận chuyển hoặc hóa đơn khống để chiếm đoạt; nâng khống giá hoặc gửi giá khi mua bán tài sản công để trục lợi([8]); cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng([9]); chuyển hóa tài sản Nhà nước thành tài sản riêng thông qua lập các hợp đồng mua bán, vận chuyển khống để chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng([10]). Công tác quản lý, sử dụng đất đai ở nhiều địa phương còn nhiều yếu kém, gây thất thoát, lãng phí lớn. Một số cán bộ Nhà nước có thẩm quyền đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, có hành vi trái phép, làm trái nguyên tắc trong việc cấp, sử dụng, thu hồi đất làm thiệt hại tài sản của Nhà nước và nhân dân. Quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường còn nhiều hạn chế, dễ phát sinh tham nhũng. Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, phần lớn các công trình xây dựng đều xảy ra thất thoát tài sản, chủ yếu do tham ô và cố ý làm trái. Sai phạm xảy ra ở hầu hết các khâu, từ việc lập dự án, thiết kế, dự toán, phê duyệt kế hoạch cấp vốn đến đấu thầu, tư vấn, giám sát, thi công, nghiệm thu, quyết toán công trình ([11])...

Những hạn chế nêu trên có thể được khắc phục nếu Việt Nam sử dụng công nghệ số để theo dõi, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản công, đất đai, khoáng sản, đầu tư công, đấu giá, đấu thầu... Thông qua việc theo dõi, giám sát, trí tuệ nhân tạo hoặc phần mềm ứng dụng trực tuyến sẽ phát hiện ra những bất thường trong chi tiêu mà không tuân thủ theo định mức, tiêu chuẩn quy định; đồng thời, công nghệ số sẽ xác định được những quyết định của cá nhân, người có thẩm quyền trong các lĩnh vực nêu trên, như: quyết định giao đất, cho thuê đất, đấu giá quyền sử dụng đất, quyết định về định giá tài sản, bán đấu giá tài sản có hợp pháp và bảo đảm không làm thất thoát tài sản công không. Ứng dụng thông minh sẽ xác định được ai, ở khâu nào không chấp hành đúng trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản; có hành vi gian lận, thiếu minh bạch trong đấu thầu hoặc xác định việc khai khống khối lượng và giá trị vật tư, thiết bị; đưa vật liệu kém chất lượng, sai quy cách vào sử dụng; thi công sai quy trình để giảm chi phí...

Thứ sáu, CMCN 4.0 phục vụ hiệu quả cho công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, vụ việc tham nhũng

Trong lĩnh vực thanh tra, thành tựu CMCN 4.0 có thể áp dụng trong xây dựng kế hoạch thanh tra (bảo đảm không chồng chéo); đưa ra tiêu chí, quy trình thanh tra, trên cơ sở đó giám sát lại chính hoạt động của các đoàn thanh tra (vừa hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra vừa bảo đảm hoạt động thanh tra can thiệp quá sâu vào những sự vụ cụ thể làm cản trở đến hoạt động bình thường của đơn vị là đối tượng thanh tra). Mặt khác, với trách nhiệm là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về PCTN, Thanh tra Chính phủ có thể ứng dụng các thành tựu của CMCN 4.0 để xây dựng Hệ thống dữ liệu thông tin, tài liệu về PCTN trong phạm vi toàn quốc, nhất là cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Việc xây dựng dữ liệu chung nhằm tăng khả năng truy cập của các cơ quan tham gia, cũng như việc sử dụng các thông tin, dữ liệu có được vào việc phát hiện, xử lý tội phạm tham nhũng, tài sản tham nhũng. Dữ liệu chung cần được các cơ quan khác phối hợp để cung cấp thông tin, ví dụ: VKSNDTC cung cấp kết quả xử lý tội phạm tham nhũng, thông tin về số tiền, tài sản tham nhũng được Viện kiểm sát nhân dân các cấp đề nghị thu hồi, tạm giữ, phong tỏa. TANDTC cung cấp thông tin về việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của Tòa án nhân dân các cấp đối với các tội phạm về tham nhũng, thông tin về số tiền, tài sản tham nhũng được Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên tịch thu sung quỹ Nhà nước… Thông qua dữ liệu chung, sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan phối hợp hiệu quả hơn nữa trong phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng.

Trong lĩnh vực kiểm tra, việc ứng dụng công nghệ số sẽ thay đổi cơ bản phương thức thực hiện các công việc kiểm tra của Đảng bằng việc áp dụng văn bản điện tử, bằng các phần mềm tổng hợp, xử lý dữ liệu, lưu trữ sổ sách cũng như cho phép thực hiện các phương thức, quy trình triển khai công việc trong môi trường tin học hóa. Cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát không mất quá nhiều công sức trong việc trình bày, phân loại văn bản, tổng hợp, báo cáo theo đúng chuẩn mực, tiếp cận gần hơn với hệ thống văn bản quốc gia và quốc tế. Đồng thời, thông qua việc sử dụng các trang thiết bị, các chương trình, công nghệ số hiện đại, có thể thu thập các thông tin mà trước đây họ khó thu thập được; có thể chiết xuất dữ liệu từ những kho dữ liệu khổng lồ, phục vụ cho tất cả các loại quyết định, các cấp lãnh đạo, tất cả các khâu kiểm soát thông tin ra quyết định và tất cả những người có lợi ích liên quan; nâng cao độ tin cậy và hợp lý của kết quả kiểm tra, giám sát thông qua việc tự thẩm tra, xác minh hoặc các hệ thống tự kiểm…Ngoài ra, CMCN 4.0 với mạng Internet diện rộng đã giúp cho công việc kiểm tra, giám sát không bị giới hạn bởi khoảng cách địa lý. Thông qua các trang thông tin điện tử, mạng Internet, cán bộ kiểm tra có thể nắm bắt thông tin tình hình vi phạm; đồng thời kết hợp với việc trao đổi thông tin, kiến thức về khoa học công nghệ, kỹ năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật, kinh nghiệm thẩm tra, xác minh, phát hiện và xử lý vi phạm.

Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử: CMCN 4.0 sẽ giúp công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm nói chung và tội phạm về tham nhũng nói riêng trở nên dễ dàng hơn bởi sự trợ giúp của các thiết bị điện tử theo dõi, giám sát..., Kinh nghiệm PCTN ở một số nước trên thế giới cho thấy, trong giai đoạn hội nhập quốc tế như hiện nay, rất nhiều đối tượng tham nhũng đã chuyển tiền, tài sản do tham nhũng mà có ra nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau; đồng thời, các đối tượng phạm tội tham nhũng có xu hướng bỏ trốn ra nước ngoài khi bị các cơ quan chức năng điều tra, xử lý. Vì vậy, việc ứng dụng công nghệ số trong điều tra tội phạm tham nhũng là giải pháp rất quan trọng và hữu ích để các cơ quan có thẩm quyền theo dõi, kịp thời xử lý, ngăn chặn việc tẩu tán tiền, tài sản tham nhũng, nhất là chuyển tiền, tài sản tham nhũng ra nước ngoài.

Mặt khác, chúng ta có thể tin rằng, với sự hỗ trợ đắc lực của trí tuệ thông minh nhân tạo sẽ giúp cho việc giám định tài sản trong các vụ án, vụ việc về tham nhũng được thực hiện nhanh chóng, chính xác hơn, giúp giải quyết được những vướng mắc trong công tác này thời gian qua, bảo đảm phục vụ đắc lực cho công tác đấu tranh, xử lý tham nhũng.

Đặc biệt, Công nghệ số cũng giúp cho Nhà nước tránh được nhiều vụ án oan, sai. Việc sử dụng các thiết bị nhận diện giọng nói, gương mặt, phát hiện nói dối, ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hỏi cung bị can hoặc lấy lời khai của các đối tượng liên quan sẽ bảo đảm hạn chế được thấp nhất các trường hợp tra tấn, bức cung, dùng nhục hình, làm giả lời khai, chữ ký của bị can, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi trong vụ án...

Ngoài ra, việc sử dụng hệ thống phần mềm trong ngành Tòa án sẽ giúp ích rất nhiều cho việc kiểm soát quyền lực của chính cơ quan này để PCTN trong công tác xét xử, nhất là trong phân công thụ lý án. Với cơ chế mô hình hiện nay, Chánh án tòa án là người quyết định toàn bộ các vấn đề liên quan tới việc phân công vụ án cho thẩm phán trong tòa án mình. Quyền "tổ chức công tác xét xử" của chánh án còn cho phép chánh án không những phân công vụ việc cho thẩm phán theo ý của mình mà còn cho phép chánh án thay đổi các thẩm phán trong quá trình thụ lý vụ án. Pháp luật có quy định một số trường hợp thẩm phán phải tự xin rút hoặc bị thay, ví dụ như đồng thời là đương sự trong vụ kiện, là người đã tham gia với tư cách người bảo vệ quyền lợi, đại diện cho đương sự trong giai đoạn trước đó... Chánh án cũng có quyền thay đổi thẩm phán khi có căn cứ để cho rằng họ sẽ "không vô tư" khi làm nhiệm vụ (Điều 53, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015). Việc đánh giá sự "không vô tư" của thẩm phán ở đây lại một lần nữa phụ thuộc vào sự suy xét chủ quan của chánh án. Nhìn chung, việc phân công thẩm phán giải quyết vụ việc được thực hiện hoàn toàn mang tính hành chính, "các nguyên tắc bảo đảm sự khách quan và ngẫu nhiên trong việc phân công án đến với các thẩm phán, qua đó ngăn chặn mối đe dọa tới sự độc lập của thẩm phán, chưa được áp dụng"[12]. Vì vậy, áp dụng các thành tựu của CMCN 4.0 sẽ giúp ngành tòa án thống kê và quản lý vụ án tốt hơn, giúp nắm bắt được khối lượng công việc và tiến độ giải quyết các vụ án. Do đó, sử dụng phần mềm quản lý hoặc trí tuệ nhân tạo có thể giúp việc phân công cho thẩm phán thụ lý vụ án một cách nhanh chóng, rõ ràng, minh bạch, bảo đảm sự khách quan và ngẫu nhiên trong việc phân công án đến với các thẩm phán, phù hợp với năng lực chuyên môn, phù hợp giới, khối lượng công việc và sự độc lập của thẩm phán; hạn chế tình trạng phân công án bị trùng thẩm phán, trùng lịch xét xử, chưa phù hợp, chưa bảo đảm tính độc lập...

Thứ sáu, CMCN4.0 giúp phòng, chống "tham nhũng vặt" hiệu quả hơn

Hiện nay, cải cách thủ tục hành chính tại Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận nhưng trên một số lĩnh vực còn chưa phát huy hiệu quả; vẫn còn tình trạng vi phạm thời hạn trong giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp[13]([14]); thủ tục hành chính còn phức tạp, đặc biệt trong các lĩnh vực như thuế, hải quan, đất đai. Tình trạng cán bộ, công chức nhũng nhiễu khi giải quyết thủ tục hành chính chưa được cải thiện ở nhiều nơi. Tham nhũng vẫn xảy ra ở nhiều lĩnh vực tồn tại cơ chế xin - cho, nhất là trong tổ chức, thực hiện các dịch vụ công (y tế, giáo dục, tư pháp, quản lý hành chính, đăng ký, quản lý đất đai) do sự phụ thuộc và tính “yếu thế” của các nhóm đối tượng phải thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực này.

Để khắc phục tình trạng này, yếu tố cốt lõi là giảm bớt hoặc loại bỏ sự tiếp xúc trực tiếp trong các giao dịch, loại bỏ sự tương tác hành chính giữa cán bộ, công chức nhà nước với người dân, doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục hành chính. Ứng dụng công nghệ số mang lại nhiều cơ hội để giải quyết vấn đề này. Theo đó, việc tiếp nhận, giải quyết các thủ tục hành chính sẽ được thực hiện tự động thông qua các phần mềm quản lý điện tử hoặc trí tuệ nhân tạo. Trên cơ sở các điều kiện và quy định, thủ tục công khai, các ứng dụng này sẽ phân loại và trả lời kết quả giải quyết thủ tục hành chính, yêu cầu bổ sung các điều kiện cần thiết khác trong trường hợp người thực hiện thủ tục hành chính còn thiếu. Việc bổ sung này cũng hoàn toàn thực hiện qua mạng internet. Điều này không chỉ loại trừ tham nhũng vặt mà còn giúp tiết kiệm thời gian, công sức đi lại cho người dân, doanh nghiệp. Nhà nước cũng tinh gọn bộ máy giải quyết thủ tục hành chính nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả, hiệu lực... Cuộc CMCN4.0 với cốt lõi là quá trình số hóa đang tăng tốc giúp sự kết nối giữa không gian thực và không gian số ngày càng chặt chẽ cũng đang làm "thay đổi diện mạo của hệ thống quản trị Nhà nước ở nhiều quốc gia"[15] [3, tr.61], giúp tăng đáng kể hiệu quả của Chính phủ, nhờ làm tăng sự kết nối trong giữa Chính phủ với doanh nghiệp, Chính phủ với người dân, giúp mở rộng và nâng cao chất lượng của dịch vụ công do các cấp chính quyền thực hiện. Hiện nay, tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến liên quan tới các thủ tục đăng ký, cấp phép, khai báo... được cung cấp trên website của các cơ quan nhà nước năm 2019 là 74%, tỷ lệ này khá tương đồng với năm 2018. Khai báo thuế điện tử vẫn là dịch vụ công được doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất (chiếm 85%), tiếp theo đó là dịch vụ đăng ký kinh doanh (chiếm 57%).Các dịch vụ công trực tuyến liên quan tới xuất nhập khẩu như thủ tục cấp giấy chứng nhận xuất xứ điện tử, khai báo hải quan, v.v... có mức độ sử dụng tương đương so với các năm trước. 55% doanh nghiệp tham gia khảo sát đánh giá lợi ích của các dịch vụ công trực tuyến ở mức rất có ích, tỷ lệ này cũng không có sự thay đổi nhiều so với tỷ lệ 54% của năm 2018, trong vòng bốn năm trở lại đây xu hướng này đang phát triển ở mức tích cực[16]. Qua đó, có thể thấy giá trị hữu ích của các dịch vụ công trực tuyến nói riêng và tổng thể môi trường kinh doanh trực tuyến ở Việt Nam hiện nay khá minh bạch và thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Áp dụng hiệu quả các dịch vụ công trực tuyến sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm một cách đáng kể những chi phí không chính thức, hạn chế tham nhũng.

3. Những khó khăn, thách thức đặt ra

Thứ nhất, thách thức về các điều kiện về cơ sở hạ tầng và kỹ thuật

Cuộc CMCN4.0 làm thay đổi cơ bản cơ cấu kinh tế, hình thức tổ chức xã hội. Mọi hoạt động chỉ đạo, điều hành của hệ thống hành chính, của các cơ quan, xí nghiệp đều thông qua mạng máy tính như: Chính phủ điện tử, thương mại điện tử, hải quan điện tử, khai báo thuế điện tử, báo chí điện tử sẽ tác động rất lớn và tạo sức ép lên các cơ quan công quyền bởi kỷ nguyên số với các công nghệ mới, nền tảng điều hành mới liên tục thay đổi cho phép người dân được tham gia rộng rãi hơn vào các hoạt động của các cơ quan này. CMCN4.0 có thể khiến "khu vực hành chính công sẽ tiết kiệm được 0,6 tỷ USD nhờ ứng dụng các công nghệ mới"[17]. Vì vậy, các cơ quan công quyền buộc phải cải tổ theo hướng minh bạch, đổi mới tư duy, trau dồi năng lực, hợp tác chặt chẽ với khu vực doanh nghiệp và các lực lượng xã hội để có thể thích nghi và ứng biến linh hoạt với các thay đổi; đồng thời dựa vào hạ tầng công nghệ số để tối ưu hóa hệ thống giám sát và điều hành xã hội theo kiểu chính phủ điện tử, đô thị thông minh... Nếu không làm được điều này thì các cơ quan công quyền sẽ phải đối mặt với ngày càng nhiều vấn đề phức tạp cần giải quyết[18].

Trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt trong việc xây dựng chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số và phát triển nền kinh tế số, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Điều này đang đòi hỏi Chính phủ cần có chính sách hợp lý để phát triển AI ở Việt Nam trong thời gian tới. Đây là thách thức không nhỏ cho Việt Nam khi về vấn đề kinh phí còn đang bị hạn hẹp. Bên cạnh hợp tác, sự cạnh tranh trong cuộc chạy đua giữa các quốc gia sẽ ngày càng khốc liệt, tốc độ hơn đòi hỏi chính phủ điện tử phải chủ động đối phó với những xu thế chung về sự thay đổi của thế giới để phục vụ người dân và doanh nghiệp được tốt hơn.

Nếu phần mềm không tương thích giữa các cơ quan, tổ chức hoặc giữa Việt Nam với các quốc gia khác; sự ùn tắc mạng internet dẫn đến chậm trễ trong việc truyền tải các hình ảnh và video, các âm thanh, hội thoại; chi phí thông tin liên lạc và trang thiết bị quá lớn; cơ sở hạ tầng nghèo nàn sẽ khó có thể cung cấp các dịch vụ trực tuyến và công nghệ số cho người dân, doanh nghiệp. Tại Việt Nam tuy lượng sử dụng điện thoại thông minh và internet khá cao nhưng chất lượng cũng như tốc độ kết nối vẫn còn yếu, khả năng bứt phá chưa cao[19]. Tốc độ Internet của Việt Nam nằm ở nhóm trung bình thấp của thế giới, ngang bằng với các quốc gia phát triển chậm ở Đông Nam Á và kém xa quốc gia đứng đầu là Singapore. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật không gian mạng còn lệ thuộc nhiều vào nước ngoài. Công tác bảo vệ an ninh mạng vẫn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém[20]. Sự kết nối tác nghiệp giữa các đơn vị hành chính, sự nghiệp, đặc biệt là các đơn vị liên quan đến thủ tục đăng ký, khai báo của người dân còn rất hạn chế và kém hiệu quả..

Việc đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và đổi mới công nghệ chính là nhân tố hết sức quan trọng để bảo đảm những thành tựu của CMCN4.0 được ứng dụng phục vụ cho Chính phủ và người dân, giảm bớt quan liêu, tham nhũng. Tuy nhiên, Việt Nam đang thiếu vốn và các điều kiện về tài chính để xây dựng cơ sở hạ tầng và kỹ thuật cho các hệ thống quản lý dịch vụ công, Chính phủ điện tử, thành phố thông minh nói chung và nguồn tài chính cho việc thiết lập ban đầu và nguồn tài chính cho việc duy trì thường xuyên các hoạt động của hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu về tham nhũng, tình hình tham nhũng, tội phạm tham nhũng và công tác đấu tranh PCTN. Chi phí cho việc thiết lập cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, vấn đề đào tạo con người và các chi phí vận hành cho hệ thống quản lý này là không nhỏ.

Thứ hai, tội phạm tham nhũng có thể sử dụng CMCN4.0 để thực hiện hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi, phức tạp, khó phát hiện và gây hậu quả lớn hơn cho xã hội

Nhờ có sự phát triển của công nghệ số mà hành vi tham nhũng có thể ngày càng nguy hiểm, khó dự báo và gây hậu quả nghiêm trọng hơn. Thực tế cho thấy, đã và đang xuất hiện nhiều vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng, kéo dài mà đối tượng mắc sai phạm là những cán bộ, đảng viên, người có chức vụ, quyền hạn cao trong các cơ quan, tổ chức đã lợi dụng những kẽ hở trong cơ chế, chính sách quản lý và sử dụng triệt để các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại của CMCN4.0 như công nghệ sao chụp, làm giả các loại giấy tờ chứng minh nguồn gốc, nhân thân… để thực hiện hành vi vi phạm. Điển hình như: Đại án “nghìn tỷ” xảy ra ở ngân hàng BIDV do lạm dụng quyền hạn phê duyệt chủ trương, quyết định một số khoản cho vay, bảo lãnh, đầu tư, quản lý nợ sai quy trình, thủ tục, thẩm quyền, quy định về tín dụng, ngân hàng để lừa đảo và chiếm đoạt tài sản công; đường dây đánh bạc nghìn tỷ thông qua ứng dụng công nghệ cao có sự bảo kê của lãnh đạo cơ quan chống tội phạm để thu lời bất chính; hay việc gian lận thi cử rất nghiêm trọng thông qua việc lợi dụng công nghệ cao ở kỳ thi PTTH quốc gia năm 2017, 2018 vừa qua ở các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Hà Giang… 

Ngoài ra, trong tương lai, công nghệ phát triển có thể tạo ra những hành vi tham nhũng mới nhưng chưa được nhận diện kịp thời và pháp luật Việt Nam chưa kịp thời nhận diện để ban hành các thể chế, chính sách phù hợp để xử lý "tham nhũng vặt".

Thứ ba, an ninh dữ liệu là mối quan tâm lớn của CMCN4.0. Bất cứ khi nào có thiết bị kết nối phổ biến để chia sẻ số lượng lớn dữ liệu thông qua Internet hoặc công nghệ dựa trên đám mây, thì có thể sẽ xuất hiện nguy cơ vi phạm an ninh. Ví dụ: Một hacker có thể xâm nhập vào hệ thống mạng quản lý các vụ án, vụ việc về tham nhũng, tiết lộ, làm rò rỉ những thông tin quan trọng trong quá trình điều tra tội phạm tham nhũng, khiến người bị điều tra tham nhũng "rút dây động rừng", có những tính toán, thủ đoạn hoặc thực hiện những hành vi đối phó hoặc xóa bỏ dấu vết, gây bất lợi cho quá trình thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm tham nhũng trong quá trình điều tra. Ở trường hợp khác, một hacker có thể xâm nhập vào hệ thống quản lý của Chính phủ để thay đổi các số liệu, hạng mục quan trọng, nhằm phục vụ hoặc mang lại những điều kiện thuận lợi cho một nhóm lợi ích, nhất là trong hoạt động đấu thầu, đấu giá... Hay thậm chí, trong lĩnh vực y tế, việc phát triển và ứng dụng công nghệ số vào khám chữa bệnh có thể dẫn đến việc đăng ký khám chữa bệnh, thực hiện các bệnh án điện tử trở nên phổ biến nhưng nếu không bảo đảm tính an ninh thì nguy cơ rò rỉ các hồ sơ y tế hoặc làm giả mạo các hồ sơ này để tham nhũng, hưởng bảo hiểm y tế có thể xảy ra phổ biến và gây ra hậu quả lớn cho xã hội.

Thứ tư, thách thức về thiếu hụt trầm trọng nhân lực, nhất là nhân lực có trình độ kỹ thuật cao, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao và công nghệ thông tin.

Mặc dù ngành công nghệ thông tin và viễn thông của Việt Nam đang từng bước được ghi nhận trên bản đồ công nghệ thông tin và truyền thông thế giới nhưng Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với những thách thức về sự thiếu hụt trầm trọng nhân lực về công nghệ thông tin, nhất là nhân lực kỹ thuật cao trong các cơ quan nhà nước. Tình hình đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ tuy có tăng về số lượng nhưng vẫn thiếu các nhà khoa học đầu ngành, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tổng số nhân lực trong ngành Công nghiệp công nghệ thông tin hiện nay khoảng trên 1,3 triệu người; trong hơn 400 trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam có tới 2/3 trường đào tạo chuyên ngành công nghệ thông tin. Tuy nhiên, theo thống kê của Viện Chiến lược Thông tin và truyền thông, Bộ Thông tin và truyền thông, có tới 72% sinh viên ngành công nghệ thông tin ra trường không có kinh nghiệm thực hành; có 42% thiếu kỹ năng làm việc nhóm, 80% lập trình viên phải đào tạo lại[21].

Thứ năm, thách thức về trình độ nhận thức và thói quen sử dụng công nghệ của người dân

Tính đến quý II năm 2020, dân số từ 15 tuổi trở lên đạt gần 73,5 triệu người, trong đó có 53,1 triệu người thuộc lực lượng lao động. Mặc dù tiến trình đô thị hóa đã và đang diễn ra nhưng đến nay lao động nông thôn vẫn được xem là đông đảo, hiện chiếm 66,5% lực lượng lao động. Lao động có việc làm đã qua đào tạo từ trình độ  "Sơ cấp" trở lên trong quý II/2020 ước tính là 12,3 triệu người, chiếm 23,8% số lao động có việc làm của toàn bộ nền kinh tế. Ngành nghề chỉ đòi hỏi lao động giản đơn thu hút nhiều lao động nhất trong thị trường lao động Việt Nam, chiếm 32,9% lao động có việc làm trên toàn quốc. Tỷ lệ người làm các công việc giản đơn còn cao trong bối cảnh đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động còn thấp[22].

Ngoài ra, trong một khảo sát khác về tình hình sử dụng các trang thông tin điện tử của người dân, PAPI 2017 cho thấy, rất ít người tìm hiểu thông tin thủ tục hành chính qua cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương. Trong bốn thủ tục hành chính PAPI đo lường (gồm chứng thực, xác nhận; cấp phép xây dựng; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thủ tục hành chính liên quan đến nhân thân), số người sử dụng cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương để tìm hiểu về quy trình, thủ tục cấp phép xây dựng là cao nhất (16%), với ba nhóm thủ tục còn lại, tỷ lệ sử dụng cổng thông tin điện tử chỉ khoảng dưới 10%. Mặc dù phần lớn những người đã sử dụng cổng thông tin điện tử đã tìm được thông tin họ cần, nhưng số lượng người dùng các trang thông tin điện tử rất thấp[23].

Những số liệu trên đây cho thấy, đây cũng là một thách thức không nhỏ trong quá trình Việt Nam áp dụng các thành tựu của CMCN4.0 trong triển khai Chính phủ điện tử, giải quyết các thủ tục hành chính trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng.

4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả PCTN trong thời đại CMCN 4.0

CMCN4.0 sẽ có tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội của Việt Nam nói chung và công cuộc PCTN của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay. Để có thể giải quyết được những khó khăn và tận dụng được những thuận lợi do CMCN4 mang lại, thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau đây:

Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ về tư duy và nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức và người dân về CMCN4.0

Mặc dù trong những năm tới, cuộc CMCN4.0 tác động sâu rộng đến Đảng, Nhà nước và toàn xã hội nhưng những tác động này diễn ra từ từ, và theo nghiên cứu của ILO cho thấy, Việt Nam vẫn chưa chứng kiến tác động của công nghệ 4.0 tại nơi làm việc bởi "giá lao động vẫn còn cạnh tranh và chi phí đầu tư công nghệ tương đối đắt đỏ"[24] [4, tr.172], vì vậy đa phần cán bộ, công chức và người dân không kịp thời nhận thức được hết những nguy cơ và thách thức to lớn mà CMCN đem lại. Do đó, cần có những giải pháp tuyên truyền hiệu quả để cả hệ thống chính trị và toàn xã hội nhận thức được những tác động của cuộc CMCN4.0, từ đó có thể chủ động nắm bắt những cơ hội và hạn chế, vượt qua khó khăn, thách thức mà cuộc CMCN4.0 đem lại. Tránh mọi biểu hiện bàng quan, thiếu tự tin, thụ động nhưng không chủ quan, nóng vội, duy ý chí.

Đặc biệt, cán bộ, công chức và người dân cần nhận thức đúng về CMCN4.0. Chúng ta không thể phủ nhận tầm quan trọng của ứng dụng các thành tựu của công nghệ số trong việc xây dựng Chính phủ điện tử, tạo lập các thuật toán và xây dựng các phần mềm quan trọng để quản lý và kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực dễ nảy sinh tham nhũng như: trong quản lý, sử dụng các tài sản công, đầu tư công, đất đai, khoáng sản, các dịch vụ công, công tác cán bộ, công tác thanh tra, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các vụ án, vụ việc tham nhũng... nhưng không nên có sự ngộ nhận, coi CMCN4.0 là "phương thuốc" trị bách bệnh về tham nhũng, chỉ cần sử dụng các phần mềm, trí tuệ nhân tạo... là có thể khắc phục được tội phạm tham nhũng. Vẫn cần nhận thức rằng, CMCN4.0 như con dao hai lưỡi: Nó có thể phục vụ hiệu quả cho công tác PCTN, song cũng có thể bị lợi dụng để thực hiện các hành vi tham nhũng với tính chất và thủ đoạn phức tạp và tinh vi hơn rất nhiều lần so với việc không có các ứng dụng của CMCN4.0, gây hậu quả nghiêm trọng hơn cho xã hội. Hơn nữa, việc ứng dụng CMCN4.0 cũng phụ thuộc vào con người, nếu cán bộ quản lý, sử dụng các ứng dụng của CMCN4.0 không trong sáng, lợi dụng công nghệ số để trục lợi thì tham nhũng có thể sẽ gây hậu quả nguy hiểm rất lớn cho xã hội. Vì vậy, điều quan trọng là luôn nhận thức đúng và đầy đủ về tác động của CMCN4.0 để có những giải pháp phù hợp trong đấu tranh PCTN. Đội ngũ cán bộ làm công nghệ trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước luôn nhận thức được quyền hạn và trách nhiệm của mình trong thực thi công vụ, phải thật sự liêm chính, trong sạch, có bản lĩnh, có trình độ, có kiến thức, kinh nghiệm,

Thứ hai, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế về CMCN4.0 nói chung và thể chế về quản lý kinh tế - xã hội, thể chế về PCTN nói riêng có tính đến những tác động của cuộc CMCN4.0. Cuộc CMCN4 phải "đổi mới tư duy về quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xây dựng và hoàn thiện thể chế cho phù hợp. Cần có cách tiếp cận mở, sáng tạo, cho thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, tạo mọi thuận lợi cho đổi mới sáng tạo"[25]. Trong thời gian tới, Việt Nam cần hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo, sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư, kinh doanh để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tài chính - tiền tệ, thanh toán điện tử, quản lý thuế và các dịch vụ xuyên biên giới phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế số; pháp luật về dữ liệu, quản trị dữ liệu tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo dựng, kết nối, chia sẻ và khai thác dữ liệu bảo đảm an toàn, an ninh mạng trong nước, tiến tới kết nối với khu vực ASEAN và quốc tế. Pháp luật về PCTN cần dự liệu những hành vi tham nhũng mới do CMCN4.0 mang đến và có những chế tài xử lý phù hợp...

Thứ ba, chú trọng thiết lập thành công nền tảng công nghệ mới (IoT, AI, Big Data, điện toán đám mây…); đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao

Chính phủ cần nhận thức trí tuệ nhân tạo (AI) là giải pháp đột phá cho việc thực hiện chủ trương tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng và chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Vì vậy, cần tập trung đầu tư nguồn nhân lực chất lượng cao về AI, xây dựng nguồn dữ liệu mở và tạo ra mối liên kết giữa các trường đại học với nguồn trí thức. Thời gian tới, cần thiết phải nâng cao hơn nữa chất lượng các chương trình đào tạo đại học, đặc biệt trong các ngành đào tạo phục vụ CMCN 4.0. Đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đặc biệt, thực hiện kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực cao cho việc vận hành, quản lý và sử dụng công nghệ số, mạng điện tử trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, nhất là đội ngũ chuyên gia, các kỹ thuật viên, các nhà quản trị và quản lý.

Thứ tư, phát triển các dịch vụ công phục vụ cho thương mại điện tử; thanh toán không dùng tiền mặt và theo dõi tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn

Để phòng chống "tham nhũng vặt" hiệu quả hơn, Nhà nước cần tăng cường cải cách hành chính, minh bạch hóa, nâng cao hiệu lực nền hành chính quốc gia, đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, chính quyền thông minh. Đổi mới công nghệ lưu trữ và khai thác dữ liệu, tích hợp các ứng dụng nhằm cung cấp các dịch vụ công như hải quan điện tử, kê khai thuế và nộp thuế, làm các thủ tục xuất, nhập khẩu, đăng ký kinh doanh và các loại giấy phép chuyên ngành liên quan đến thương mại. Triển khai thực hiện Đề án Cổng Dịch vụ công quốc gia, trong đó xác định lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm để phục vụ. Tăng cường sử dụng chữ ký số trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Đồng thời, Chính phủ cần ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm công, đấu thầu, quản lý tài sản công, đầu tư công, quản lý và sử dụng đất đai, khoáng sản. Điều này sẽ đổi mới phương thức làm việc để rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính, giảm chi phí không chính thức, giảm nhũng nhiễu đối với doanh nghiệp và người dân, nhất là các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần củng cố niềm tin, thúc đẩy cạnh tranh, khuyến khích doanh nghiệp phát triển.

Ngân hàng nhà nước và các cơ quan liên quan cần tích cực triển khai thực hiện Đề án thanh toán không dùng tiền mặt và các biện pháp tăng cường phòng, chống rửa tiền, chống tội phạm kinh tế. Tăng cường, mở rộng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Điều này không chỉ giảm chi phí và đem lại nhiều tiện ích cho người dân, doanh nghiệp mà còn thúc đẩy minh bạch, công khai, phòng chống tham nhũng, rửa tiền, chống tội phạm kinh tế. Thanh tra Chính phủ cần nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện Cơ sở dữ liệu quốc gia về quản lý tài sản, thu nhập. Đây chính là biện pháp quan trọng để phát hiện và xử lý tham nhũng.

Thứ năm, tăng cường sử dụng công nghệ số để nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi tham nhũng

Các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, cơ quan tiến hành tố tụng cần tiếp tục đẩy mạnh việc áp dụng các thành tựu của CMCN4 vào các hoạt động phục vụ cho quá trình phát hiện và xử lý tham nhũng. Sử dụng công nghệ để đẩy mạnh công khai kết luận thanh tra, công khai việc thực hiện các kết luận kiểm toán, nhất là đối với những cuộc thanh tra, kiểm toán phức tạp, được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, tập trung vào các dự án đầu tư lớn của các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước; quản lý sử dụng đất đai; đầu tư theo hình thức BT, BOT; cổ phần hóa, thoái vốn, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước; quản lý vốn, tài sản nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp; các dự án mua sắm lớn từ ngân sách nhà nước. Đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc tham nhũng, kinh tế đã phát hiện; chú trọng xác minh, áp dụng các biện pháp kỹ thuật công nghệ để kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của các đối tượng phạm tội tham nhũng ngay từ giai đoạn điều tra, không để tấu tán, hợp thức hóa tài sản tham nhũng.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.  Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN (2019), Thông báo số 220-TB/BCĐTW ngày 02/8/2019 về Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN tại Phiên họp thứ 16 của Ban Chỉ đạo.

2.  Ban Chỉ đạo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) (2016), Báo cáo Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí, ngày 4/12/2016.

3.  Ban Kinh tế Trung ương (2017), Việt Nam với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

4.  Ban Kinh tế Trung ương (2019), Chủ trương, chính sách của Việt Nam chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

5.  Ban Nội chính Trung ương (2019), Báo cáo tổng kết công tác năm 2018 và từ sau Đại hội XII của Đảng đến nay, nhiệm vụ trọng tâm năm 2019 của ngành Nội chính Đảng ngày 16/1/2019.

6.  Bộ Chính trị (2018), Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

7.  Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

8.  Chính phủ (2015), Nghị quyết số 36a/NQ/CP ngày 14/10/2015 về Chính phủ điện tử.

9.  Chính phủ (2017), Nghị quyết số 34/NQ-CP ngày 07/4/2017 về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3 năm 2017.

10.   Chính phủ (2019) Báo cáo số 372/BC-CP ngày 30/8/2019 về Công tác phòng, chống tham nhũng năm 2019.

11.  Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam (2020), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2020.

12.  Nguyễn Hải Ninh (2013), Các yếu tố bảo đảm độc lập xét xử ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam

13.  Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự.

14.  Tổng cục thống kê (2020), Báo cáo điều tra lao động việc làm Quý II/2020.

15.  Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 04/5/2017 về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN lần thứ 4.

16.  Trung tâm nghiên cứu phát triển và hỗ trợ cộng đồng (2016), Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI).

17.  Trung tâm nghiên cứu phát triển và hỗ trợ cộng đồng (2017), Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) năm 2017.

18.  Trung tâm thông tin khoa học lập pháp (Viện nghiên cứu lập pháp) (2018) Thông tin chuyên đề: "Cách mạng công nghiệp 4.0 - Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam", Hà Nội.

19.  Thùy Linh, Đánh giá ứng dụng CNTT năm 2019: Cổng Thông tin điện tử Đà Nẵng thuộc nhóm 5 tỉnh thành đứng thứ nhất xem: https://danang.gov.vn/chinh-quyen/chi-tiet?id=40777&_c=3 đăng ngày 27-08-2020.

20.  Klaus Schwab (2016), Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những tác động, Diễn đàn kinh tế Thế giới Davos lần thứ 10, Thiên Tân - Trung Quốc.

 

 

 

 

 



[1] Klaus Schwab, “The Fourth Industrial Revolution: what it means, how to respond”, World Economic Forum,

[https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-fourth-industrial-revolution-what-it-The Fourth Industrial

Revolution: what it means and how to respondmeans-and-how-to-respond/ qua @wef], 14 Jan 2016.

[2] Như: Công tác cán bộ; quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản; mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản công; dự toán, quyết toán ngân sách; thông tin về quy hoạch các dự án; kết quả các cuộc thanh tra, kiểm tra; huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân v.v...

[3] Ban Chỉ đạo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) (2016), Báo cáo Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí, ngày 4/12/2016.

[4] Thùy Linh, Đánh giá ứng dụng CNTT năm 2019: Cổng Thông tin điện tử Đà Nẵng thuộc nhóm 5 tỉnh thành đứng thứ nhất xem: https://danang.gov.vn/chinh-quyen/chi-tiet?id=40777&_c=3 đăng ngày 27-08-2020.

[5] Ban Kinh tế Trung ương (2019), Chủ trương, chính sách của Việt Nam chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, tr. 124.

[6] Ban Kinh tế Trung ương (2019), Tlđd, tr. 57-58

([7]) Vụ án xảy ra tại Công ty Vifon - TP Hồ Chí Minh: Nguyễn Bi, nguyên Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng giám đốc; Nguyễn Thanh Huyền, nguyên Phó Tổng giám đốc, kế toán trưởng, lập chứng từ khống chiếm đoạt hơn 20 tỷ đồng; để lại, không thu về Công ty số tiền 59,9 tỷ đồng nhằm chiếm đoạt khi cổ phần hóa. Vụ Công ty cho thuê tài chính II thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: các bị can trong vụ án đã nâng khống giá thiết bị tàu lặn từ 100 triệu đồng lên 130 tỷ đồng để chiếm đoạt.

([8]) Vụ Công ty cho thuê tài chính II thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: các bị can trong vụ án đã nâng khống giá thiết bị tàu lặn từ 100 triệu đồng lên 130 tỷ đồng để chiếm đoạt.

([9]) Vụ án Đinh La Thăng và đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); vụ án Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam – PVC và Công ty Cổ phần Bất động sản Điện lực dầu khí Việt Nam – PVP Land.

([10]) Vụ Trần Văn Khánh, Tổng Công ty Vật tư nông nghiệp; Vụ Công ty xăng dầu Hàng không.

([11]) Điển hình như vụ tham ô, cố ý làm trái và lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Ban quản lý dự án di tích lịch sử chiến tranh tỉnh; vụ Huỳnh Ngọc Sĩ, nhận hối lộ trong Dự án xây dựng hành lang Đông -Tây tại TP Hồ Chí Minh; các vụ tham ô tại PMU18, tại Dự án cầu Bãi Cháy, tỉnh Quảng Ninh; tại Cảng Thị Vải, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu...

[12] Nguyễn Hải Ninh (2013), Các yếu tố bảo đảm độc lập xét xử ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, tr.108

[13] Đánh giá PAPI 2016 cho thấy vẫn còn tới 10% số người đi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải chờ từ 100 ngày trở lên. Ngoài ra, khoảng 23% cho biết họ đã phải đưa “lót tay” mới làm xong thủ tục, 10% phải đi qua môi giới và 20% phải đi lại hơn 5 lần mới xong việc.

 

[15] Ban Kinh tế Trung ương (2017), Việt Nam với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr.61

[16] Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam (2020), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2020, tr.49.

[17] Ban Kinh tế Trung ương (2019), Chủ trương, chính sách của Việt Nam chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, trang 66.

[18] Ban Kinh tế Trung ương (2019), Tlđd., tr.66

[19] Ban Kinh tế Trung ương (2017), Việt Nam với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr. 424.

[20] Ban Kinh tế Trung ương (2019), Tlđd tr.127.

[21] Ban Kinh tế Trung ương (2019), Tlđd, tr. 125

[22] Tổng cục thống kê (2020), Báo cáo điều tra lao động việc làm Quý II/2020.

[23] Trung tâm nghiên cứu phát triển và hỗ trợ cộng đồng (2017), Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) năm 2017. Tr.33.

[24] Ban Kinh tế Trung ương (2019), Tlđd, tr.172

[25] Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.