Thứ Năm, 5 tháng 10, 2017

PHÂN QUYỀN DỌC VÀ TÁC ĐỘNG TỚI QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM

ảnh: Internet
TS. Mai Văn Thắng
ThS. NCS. Tạ Đức Hòa
Nguồn: TC Quản lý Nhà nước
số tháng 9/2017
Tóm tắt: Trong bài viết này tác giả tập trung phân tích bản chất của phân quyền và nội hàm của phân quyền theo chiều dọc, những điều kiện, nhu cầu, nhân tố thúc đẩy và phát triển của xu hướng phân quyền dọc ở Việt Nam. Trên cơ sở đó bài viết chỉ ra và phân tích những ảnh hưởng của xu hướng này tới những nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước cũng như những tác động của nó tới mô hình, phương thức quản trị nhà nước hiện đại ở nước ta trong thời gian tới.
Từ khóa: Phân quyền dọc, chính quyền địa phương, quản trị nhà nước, tác động, Việt Nam.
(Lưu ý: Trong Tạp chí số này, Ban Biên tập đã cắt giảm số lượng của bài viết. Dưới đây là toàn bộ nội dung bài viết)
1.          Đặt vấn đề
Những năm gần đây, ở nước ta bước đầu có sự đổi mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy và hệ thống quản trị nhà nước. Nhà nước dân chủ pháp quyền XHCN đã và đang được xây dựng. Chính quyền kiến tạo, phục vụ, hành động, liêm chính được thể hiện trong cả tuyên bố lẫn hành động[1].

Tuy vậy, so với sự phát triển mạnh mẽ trên thế giới, mô hình, phương thức quản trị nhà nước ở Việt Nam được cho chưa tiến kịp trào lưu chung[2]. Chẳng hạn, các nguyên tắc của quản trị tốt, dù đã phổ biến trên thế giới, nhưng ở nước ta vẫn còn khá mới mẻ cả trong nhận thức lý luận lẫn hành động thực tiễn dù quyết tâm đổi mới là rất mạnh mẽ.
Những nhân tố tác động đến sự thay đổi của tổ chức nhà nước và quản trị nhà nước tương đối đa dạng, vì vậy, trong khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ có thể tập trung phân tích về phân quyền dọc như là một trong các yếu tố cơ bản mà theo tác giả sẽ có những ảnh hưởng mạnh tới tổ chức quyền lực và quản trị nhà nước nói chung và nhà nước Việt Nam nói riêng.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà cho tới nay phân quyền như là một nguyên tắc tổ chức, hoạt động của nhà nước và quản trị quốc gia hiện đại chưa được thực hiện hiệu quả ở Việt Nam. Phân quyền theo chiều ngang đã ít nhiều được thể hiện và hiến định với các quy định giao “thực hiện” và “kiểm soát” thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Quốc hội, Chính phủ và Tòa án. Thừa nhận các yếu tố phân quyền theo chiều ngang cũng đã phần nào thay đổi diện mạo quản trị quốc gia ở nước ta hiện nay. Nhưng ở góc độ khác, phân quyền theo chiều dọc không có được sự chuyển biến đáng kể. Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015[3] và các văn bản luật liên quan đã quan tâm đến yếu tố phân cấp, phân quyền và ủy quyền cho các cấp chính quyền địa phương và cố gắng điều chỉnh lại mối quan hệ giữa trung ương và địa phương; giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau theo hướng giao thêm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho địa phương. Nhưng trên thực tế mô hình quản trị quốc gia không có nhiều thay đổi. Nỗ lực giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã chưa tạo ra được một nền quản trị hiện đại, linh hoạt, gọn nhẹ, được kiểm soát, giám sát chặt chẽ bằng luật pháp, chính sách. Sự nhiệt huyết, năng động của trung ương đôi khi chưa lan tỏa được xuống các cấp chính quyền địa phương, chưa thúc đẩy sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương, chưa giải quyết được một cách rõ ràng mối quan hệ giữa phụ thuộc và tự chủ, tự chịu trách nhiệm, giữa cấp dưới và cấp trên, giữa nhà nước và xã hội…[4].
Những bất đồng, xung đột giữa chính quyền và người dân, những khiếu nại, khiếu kiện đông người, những bức xúc của cả một cộng đồng dân cư lớn, sự “mất chất” của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức địa phương… được nêu ra gần đây đều có nguyên nhân từ mô hình quản trị quốc gia chưa hiện đại và gắn trực tiếp với những vấn đề, những bất cập và kém hiệu quả trong thực hiện nguyên tắc phân quyền dọc ở nước ta. Thiết nghĩ, vấn đề chỉ có thể được giải quyết thấu đáo và căn cơ, các chính sách tiến bộ, tâm huyết của trung ương chỉ có thể được lan tỏa xuống địa phương và người dân, sự năng động, khả năng chịu trách nhiệm, tự chủ của cơ sở … cũng chỉ có thể được thể hiện khi có những điều chỉnh hợp lý, phù hợp và hiện đại mối quan hệ phân chia quyền lực giữa trung ương và địa phương cũng như những thay đổi trong mô hình và phương thức quản trị quốc gia theo chiều dọc.
2.     Bản chất, nội hàm và xu hướng của phân quyền dọc
2.1.         Bản chất, nội hàm của phân quyền dọc
Thông thường, phân quyền được hiểu chủ yếu ở góc độ phân quyền ngang. Có nghĩa là phân quyền thường đồng nghĩa với việc phân chia quyền lực nhà nước ra làm ba nhánh: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp và được trao cho ba loại cơ quan khác nhau với cơ chế giám sát, kiểm soát hiệu quả để tránh lạm quyền. Đây là nhận thức phù hợp, tuy nhiên chưa đầy đủ.
Một cách đầy đủ nhất, phân quyền cần được nhận thức và vận dụng cả ở ba góc độ: 1) phân quyền ngang; 2) phân quyền dọc: 3) phân quyền đặc biệt[5].
Ngoài phân quyền ngang như đã khái quát ở trên, phân quyền dọc là nguyên tắc, phương thức tổ chức quyền lực nhà nước mà trong đó thiết lập được cơ chế phân quyền hợp lý, phù hợp, hiện đại giữa chính quyền nhà nước ở trung ương với chính quyền ở các địa phương đảm bảo sự vận hành hiệu quả, linh hoạt, chủ động, rõ ràng về cơ chế trách nhiệm giữa các loại, cấp chính quyền với điều kiện đảm bảo sự thống nhất, xuyên suốt của chủ quyền quốc gia. Phân quyền dọc là sự thiết lập cơ chế phân chia quyền lực rõ ràng giữa chính quyền ở các địa phương trong tổng thể chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Trong khuôn khổ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm đã được phân định rõ, mỗi cấp chính quyền sẽ tự chủ, tự giác và tự chịu trách nhiệm thực hiện sao cho hiệu quả. Để đảm bảo sự thống nhất của chủ quyền quốc gia ngăn ngừa sự lạm quyền của các cấp chính quyền và, đương nhiên, những cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát hiệu quả cũng được thiết lập.[6]
Phân quyền dọc không phải là tản quyền, ủy quyền. Phân quyền dọc là phân định quyền lực giữa trung ương và địa phương và các cấp địa phương đảm bảo sự độc lập tương đối của các cấp chính quyền, sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền. Phân quyền dọc luôn gắn liền với nguyên tắc pháp quyền bởi cơ sở của sư phân định ấy là pháp luật và sự thượng tôn của pháp luật. Phân quyền dọc còn bao hàm cả phân quyền cho chính quyền tự quản dù bản chất của chính quyền tự quản là thiết chế nửa nhà nước.
Phân quyền đặc biệt là sự phân định quyền lực giữa nhà nước và xã hội. Giám sát chính quyền, phúc quyết, bãi miễn, phản biện xã hội, khiếu nại, tố cáo, bẩu cử, trưng cầu ý dân ở mọi cấp độ… được hiến định và luật định để kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây cũng được xem là một loại phân quyền và đó là loại phân quyền đặc biệt trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Phân quyền đặc biệt có mối liên hệ mật thiết với phân quyền dọc và phân quyền ngang trong mối liên hệ về tổ chức và thực hiện quyền lực công cộng ở mỗi quốc gia.
2.2.         Phân quyền dọc như một xu hướng phổ biến của thế giới hiện đại
Phân quyền nói chung và phân quyền dọc đã được áp dụng phổ biến trên thế giới và hiện nay vẫn được coi là một trong những xu hướng chủ đạo bởi những nguyên do căn bản, như: 1) Phân quyền dọc giúp thúc đẩy và phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp. Bởi, trên thực tế với quy mô dân số, lãnh thổ nhỏ có thể tạo điều kiện phát huy tối đa lợi thế của các hình thức dân chủ trực tiếp qua đó bảo đảm được dân chủ, nhân quyền; 2) Khuyến khích sự linh hoạt, năng động và khả năng tự chịu trách nhiệm của chính quyền các cấp và theo đó sẽ làm cho quản trị nhà nước ở địa phương trở nên dân chủ, hiệu quả hơn. Chính quyền địa phương vì vậy sẽ gần dân hơn; 3) Góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, vật lực, tài lực và quyền lực nhà nước để phục vụ phát triển đất nước cũng như từng địa phương. Phân quyền dọc thực chất là phân định hợp lý các nguồn lực để mỗi cấp có thể tập trung những gì là tốt nhất, tinh túy nhất hướng đến giải quyết tốt nhất, hiệu quả nhất nhiệm vụ của từng cấp chính quyền; 4) Góp phần tích cực tinh giản được bộ máy cồng kềnh, kém hiệu quả như là hệ quả tất yếu của sự quản lý nhà nước theo mô hình tập trung, quan liêu, đồng thời góp phần giải quyết tốt hơn tình trạng tham nhũng, cửa quyền hách dịch, quan liêu của cán bộ, công chức địa phương; 5) Thúc đẩy năng lực giám sát, phản biện của người dân, xã hội với chính quyền và giải quyết tốt, nhanh và hiệu qủa các vấn đề bức thiết của đời sống dân sinh ngay tại địa phương góp phần triệt tiêu nguy cơ bất ổn cho thể chế, trật tự an toàn xã hội…; 6) Cung ứng dịch vụ công, hành chính công phù hợp và hiệu quả hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của địa phương và của người dân địa phương; 7) Giải quyết được sự bất bình đẳng giữa các địa phương, tạo cơ chế hữu hiệu hơn trong đại diện và đảm bảo tốt quyền, lợi ích của địa phương trong mối quan hệ với chính quyền ở trung ương; 8) Tạo cơ chế kiểm soát quyền lực tốt hơn qua đó bảo đảm tốt hơn nhân quyền và quyền làm chủ của người dân trong mối quan hệ với các thiết chế quyền lực cả trung ương và địa phương…
Phân quyền dọc có nhiều ưu điểm, đã nhiều quốc gia tiến bộ vận dụng thành công và đem lại sự thịnh vượng, nền dân chủ, pháp quyền. Có lẽ vì thế, phân quyền nói chung và phân quyền dọc nói riêng luôn là một xu thế phổ biến trên thế giới hiện đại. Tuy nhiên, khi áp dụng vào Việt Nam cần phải tính đến sự tương thích với các điều kiện của nước ta. Nổi bật nhất, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa phân quyền dọc và nguyên tắc “Tập trung dân chủ” và “đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng”, đặc biệt là cấp ủy địa phương với các cấp chính quyền địa phương.
3.          Những tác động của xu hướng phân quyền dọc của tới quản trị nhà nước hiện đại ở Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam dường như chưa có một triết lý cũng như mô hình phân quyền dọc phù hợp, hiệu quả.[7] Những nỗ lực trong việc phân cấp, phân quyền, ủy quyền cho các cấp chính quyền địa phương là đáng ghi nhận nhưng chưa đủ để làm nên một mô hình phân quyền dọc ổn định, khoa học, phù hợp và hiệu quả.
Tuy nhiên, phân quyền theo chiều dọc là xu thế phổ biến, khách quan và có nhiều dư địa để vận dụng, phát triển ở Việt Nam trong thời gian tới. Vậy, nếu được vận dụng, tư tưởng và mô hình phân quyền dọc sẽ ảnh hưởng, tác động như thế nào đến nền quản trị nhà nước ở Việt Nam. Nói một cách khác, quản trị nhà nước ở nước ta sẽ chuyển dịch như thế nào dưới tác động của phân quyền dọc.
Theo quan điểm của tác giả, những tác động, ảnh hưởng cơ bản là:
Thứ nhất, phân quyền dọc góp phần chuyển dịch từ nhà nước quản lý sang quản trị nhà nước và hướng tới quản trị tốt.
Đây là một trong những xu thế và sự ảnh hưởng mang tính khách quan và hợp quy luật. Bởi lẽ, từ trong truyền thống và cho tới tận ngày nay ở Việt Nam nhà nước luôn gắn bộ máy đồ sộ có khả năng và độc quyền sử dụng vũ lực để đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng vệ đất nước. Nhà nước là giá trị chung, có sứ mệnh bao bọc, bảo vệ và quản lý xã hội. Nhà nước đứng trên xã hội và quản lý xã hội, có vị trí trung tâm trong mọi quan hệ trong xã hội, ứng xử xã hội.
Tuy vậy, khi phân quyền dọc được áp dụng sẽ có những chuyển dịch về sứ mệnh, chức năng, vai trò của nhà nước. Những nguyên tắc cơ bản của quản trị nhà nước hiện đại như thượng tôn pháp luật, trách nhiệm giải trình, sự tham gia của người dân, dân chủ, chính quyền chịu trách nhiệm, sự đồng thuận và bộ máy quản trị chuyên nghiệp, minh bạch thông tin…[8] sẽ được áp dụng. Phân quyền dọc không có gì khác ngoài sự phân định rõ quyền lực giữa các loại, cấp chính quyền trong một quốc gia theo khu vực, lãnh thổ. Phân quyền dọc đồng nghĩa với việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các chính quyền địa phương và đảm bảo tự quản địa phương. Những nguyên tắc quản trị nhà nước hiện đại vì vậy đương nhiên sẽ được áp dụng và điều đó làm chuyển biến nhận thức về chính quyền và nhà nước. Tính tập trung quyền lực sẽ giảm đi mà thay vào đó là sự phân quyền phù hợp, sự linh hoạt, tự chủ để đảm bảo hiệu quả nền quản trị quốc gia.
Ngoài ra, khi con người, quyền, tự do và phẩm giá của họ được định vị trở thành trung tâm của mọi quan hệ, ứng xử xã hội, thì nhà nước và chính quyền phải có nghĩa vụ đảm bảo cho vị trí đó cũng như quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của họ. Nhà nước khi ấy cũng chỉ là một trong các thiết chế, phương tiện để bảo vệ, bảo đảm, thúc đẩy các quyền con người. Ngoài nhà nước còn có các thiết chế, phương tiện khác.
Phân quyền dọc cũng giúp cho việc tái điều chỉnh lại chức năng cung ứng dịch vụ công và hành chính công. Nhà nước sẽ không còn là thiết chế duy nhất cung ứng dịch vụ công và thậm chí cả hành chính công. Đảm bảo sự hiệu quả, tinh gọn trong bộ máy và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dân địa phương là nhiệm vụ của chính quyền. Các cấp chính quyền sẽ chỉ là những người tổ chức, kiểm tra và giám sát, còn nhiều loại dịch vụ công sẽ được chuyển dịch sang khu vực tư. Cung ứng dịch vụ công sẽ trở thành nặng nề, không hấp dẫn với chính quyền và công chức khi mọi thứ trở nên minh bạch, yêu cầu trách nhiệm giải trình và đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dân. Nền hành chính công cũng sẽ không còn là đặc quyền của nhà nước khi thực hiện quyền tự quản địa phương. Chính quyền của các đơn vị tự quản sẽ được ủy quyền thực hiện nhiều thủ tục hành chính mà trước đây chỉ có chính quyền nhà nước mới được làm[9].
Cùng với đó, như là một hệ quả tất yếu khi chính quyền địa phương được chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự quản địa phương được thực thi và dịch vụ công được chuyển dịch cho chính quyền các cấp và chuyển dần sang khu vực tư, bộ máy nhà nước vì thế sẽ được gọn nhẹ, linh hoạt và hiệu quả hơn. Và khi phân quyền dọc được thực thi, cơ chế và công cụ duy nhất để đảm bảo sự thống nhất quốc gia là luật pháp. Khi đó, luật pháp sẽ có được vị trí xứng đáng, thương tôn và khác xa với những chỉ đạo, mệnh lệnh hành chính hiện nay mà nhiều khi còn được lãnh đạo địa phương nhận thức quan trọng hơn cả các quy tắc pháp lý.
Thứ hai, chuyển dịch từ nhà nước quản lý, nhà nước kiến tạo phát triển sang nhà nước điều tiết
Hiện vẫn còn không ít những quan điểm cho rằng, không thể tách chức năng quản lý của nhà nước ra khỏi nhà nước bởi quản lý là bản chất của nhà nước.[10] Đây là một trong những nhận thức cơ bản và truyền thống về chức năng của nhà nước hiện nay ở nước ta.
Tuy nhiên, nhà nước quản lý không còn phù hợp khi tổ chức theo nguyên tắc phân quyền. Nhà nước sẽ vô cùng khó khăn trong việc quản lý thống nhất các lĩnh vực của đời sống xã hội khi xuất hiện hiện tượng đa tầng, đa diện và đa chủ thể trong quan hệ quyền lực. Mỗi chủ thể ở mỗi cấp sẽ có thẩm quyền và chức năng riêng và theo nguyên tắc không xâm phạm đến nhau, không can thiệp vào công việc, chức năng của nhau một cách trái luật. Hiện tượng đa tầng, da diện, đa chủ thể sẽ góp phần làm cho tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương được đề cao và trên cơ sở đó sẽ có cách quản trị phù hợp với địa phương mình và vì lợi ích của người dân mình miễn là đảm bảo sự thống nhất quốc gia, không đi ngược lại các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước đã được hiến định.
Thuật ngữ quản lý mang tính chất áp đặt, mệnh lệnh và mang tính chất hành chính và đòi hỏi phải có sự thống nhất, tập trung cao độ cùng bộ máy hành chính đủ lớn để tổ chức, chỉ đạo, thực hiện. Điều này không còn phù hợp với mô hình phân quyền dọc. Bởi phân quyền dọc là sự phân định rõ ràng về quyền lực cho các cấp chính quyền và trao cho họ không gian tự chủ, tự chịu trách nhiệm lớn trong khoảng phân định đó. Vì vậy, nếu vẫn giữ chức năng quản lý sẽ không hiệu quả và không phù hợp. Nhà nước khi đó sẽ phải tìm đến mô hình quản trị hiện đại để đảm bảo hiệu quả bởi quản trị là phương thức tổ chức xã hội, cộng đồng hiệu quả vì nó cho phép sự năng động, đa dạng và linh hoạt của các chủ thể trong việc tiếp cận thực hiện chức năng và nhiệm vụ. Quản trị hiện đại cũng sẽ giúp cho chính quyền có thể huy động được nguồn lực xã hội dễ dàng hơn trong khi thực hiện chức năng của mình.
Nhà nước kiến tạo phát triển cũng tương tự như vậy. Dù còn nhiều quan niệm khác nhau về nhà nước kiến tạo phát triển (Developmental state), nhưng các mô hình nhà nước kiến tạo phát triển trên thế giới đã cho chúng ta thấy rõ đây là mô hình nhà nước mạnh, tập trung quyền lực để định hướng phát triển. Nhà nước kiến tạo phát triển thường đi liền với tập quyền minh triết vì có định hướng kiến tạo phát triển. Tuy nhiên, mô hình này cũng sẽ không hoàn toàn phù hợp khi áp dụng phân quyền dọc bởi khi đó các chính quyền địa phương có quyền được tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong phạm vi phân định thẩm quyền. Dân chủ, nhân quyền, minh bạch, đồng thuận ở cấp địa phương sẽ là một trở lực lớn cho nhà nước Developmental state kiểu như đã được áp dụng ở một số quốc gia trên thế giới[11].
Vì vậy, với sự phân định rõ ràng về thẩm quyền, chức năng cho từng địa phương, từng loại và cấp chính quyền, phân quyền dọc sẽ thúc đẩy nhà nước từ quản lý, kiến tạo phát triển sang nhà nước điều tiết. Bởi nhà nước điều tiết sẽ phát huy vai trò của luật pháp, đảm bảo sự thượng tôn của pháp luật, cho phép sự đa dạng, linh hoạt, đa chủ thể trong thực hiện chức năng của nhà nước và cũng làm cho nhà nước gọn gàng, linh hoạt và hiệu quả hơn.
Thứ ba, phân quyền dọc sẽ có những tác động tới phương thức lãnh đạo của Đảng và một số nguyên tắc tổ chức, hoạt động của nhà nước Việt Nam hiện nay.
Hiến pháp năm 2013 đã xác định một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước. Theo đó, những nguyên tắc hiến định truyền thống tiếp tục được khẳng định như: Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội và nguyên tắc tập trung dân chủ…
Tuy nhiên, nếu áp dụng phân quyền dọc hai nguyên tắc này cần có những tiếp cận mới, linh hoạt hơn. Với nguyên tắc Đảng lãnh đạo có lẽ sẽ phải được tiếp cận mở hơn ở các cấp chính quyền địa phương nhất là công tác tổ chức, nhân sự. Ngoài ra, tập trung dân chủ cùng cần được nhận thức theo hướng mở rộng dân chủ cấp địa phương và tập trung được nhận thức trên cơ sở thống nhất bằng pháp luật và đường lối lãnh đạo của Đảng…
Rõ ràng, bằng cách này hay cách khác, nếu vận dụng phân quyền dọc ở Việt Nam thì những nguyên tắc trên cũng có những tác động nhất định và cần phải tính đến, nghiên cứu kỹ để tránh những tác động xấu hoặc thay đổi căn bản nguyên tắc hiến định hiện nay.
Thứ tư, phân quyền dọc góp phần tinh giản bộ máy và làm hiệu quả hóa hoạt động của bộ máy nhà nước ở trung ương cũng như địa phương.
Một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay cồng kềnh, kém hiệu quả là do cơ chế và tư duy quản lý của nước ta chưa thật sự có nhiều chuyển biến. Trong lịch sử, với mô hình nhà nước kế hoạch tập trung, nhà nước quản lý tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vì vậy, bộ máy nhà nước cần phải rất lớn cùng với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đồ sộ để có thể đảm đương được khối lượng công việc khổng lồ. Tuy nhiên, bộ máy lớn, chuyên viên đông đảo không đồng nghĩa với hiệu quả công việc. Chưa bàn đến các yếu tố khác như tiền lương, cơ chế khuyến khích, sự công bằng trong công việc, công tác tổ chức cán bộ còn có nhiều vấn đề, bộ máy nhà nước ta cơ bản chưa thật sự hiệu quả và “ngồn” khá nhiều ngân sách. Hiện nay, Việt Nam đã có nhiều cải cách về hành chính, bộ máy, công tác cán bộ, nhưng về tư duy và mô hình chưa có nhiều thay đổi. Nhà nước với bộ máy hùng mạnh từ trung ương cho tới tận chính quyền cơ sở và len lỏi cả tới những thôn, ấp, bản, buôn… thật sự không còn phù hợp trong bối cảnh áp dụng cơ chế, nguyên tắc phân quyền dọc. Trong cơ chế phân định rõ thẩm quyền, chức năng nhiệm vụ, chính quyền địa phương sẽ chủ động tính toán trong việc tuyển dụng để đảm bảo sự chuyên nghiệp, hiệu quả và tốn ít chi phí nhất trong khả năng tài chính của địa phương mình. Bộ máy nhà nước ở trung ương chỉ cần tập trung vào các ngành dọc (tòa án, quân sự, công an, thuế…), còn những chức danh hành chính khác (thậm chí cả cơ quan dân cử,…) hoàn toàn có thể trao cho chính quyền các cấp tự chủ, tự lo liệu để đảm bảo hiệu quả. Nguồn lương sẽ được đảm bảo bằng nguồn thu của các cấp chính quyền. Hơn nữa, trong cơ chế phân quyền dọc, sẽ hạn chế khả năng lợi dụng chính sách để đưa người thân, người nhà vào làm cán bộ, công chức, viên chức địa phương hoặc chí ít cũng hạn chế việc nhận hối lộ, đút lót trong công tác cán bộ. Việc kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội và trách nhiệm giải trình cũng làm cho bộ máy được lọc một cách tự nhiên và hạn chế trục lợi từ công tác cán bộ như hiện nay. Cùng với đó, hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức, viên chức sẽ được tốt hơn trong một nền quản trị hiện đại hơn.
Thứ năm, phân quyền dọc sẽ thúc đẩy cải cách quản trị nhà nước, đặc biệt quản trị nhà nước ở địa phương theo hướng tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của chính quyền ở các địa phương.
Một thực trạng ở Việt Nam trong suốt nhiều năm là chính quyền địa phương nhiều nơi có văn hóa “không nhúc nhích”, chỉ “nhìn lên” chứ không “nhìn xuống”, và thường chỉ báo cáo với cấp trên còn đối với nhân dân và cấp chính quyền bên dưới ít có cơ chế hiệu quả đảm bảo trách nhiệm giải trình. Tuy nhiên, nếu áp dụng cơ chế phân quyền dọc, chính quyền địa phương sẽ phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm và đây vừa là cơ hội vừa là áp lực cho chính quyền các cấp (kể cả chính quyền các đơn vị tự quản nếu được phép tổ chức) cần phải đổi mới tư duy, hướng về cơ sở nhiều hơn bởi chính cơ sở, nhân dân mới quyết định đến sinh mệnh chính trị của họ. Phân quyền dọc sẽ không còn chỗ cho sự trông chờ, ỷ lại mà mở ra cơ hội cho sự cạnh tranh giành sự ủng hộ, nguồn lực đầu tư, nhân lực, tài lực… để phát triển cho địa phương mình. Phân quyền dọc sẽ làm cho chính quyền địa phương năng động hơn, có trách nhiệm hơn đối với chính địa phương và người dân của mình.
Ngoài ra, việc phân định rõ thẩm quyền sẽ tránh được hiện tượng đổ lỗi hoặc thiếu cơ chế phân định trách nhiệm giữa các cấp chính quyền - một hiện tượng không phải là hiếm hiện nay ở nước ta.
Thứ sáu, phân quyền dọc sẽ làm thay đổi nhận thức về vị trí, vai trò của pháp luật, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền.
Pháp luật trong nhà nước kế hoạch, tập trung quan liêu bao cấp không có nhiều ý nghĩa trên thực tế mà thay vào đó là các mệnh lệnh, chỉ thị và kế hoạch. Hiện nay, tình hình này đã được cải thiện cùng với cải cách, đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Tuy vậy, với cơ chế quản lý hành chính tập trung, mệnh lệnh và các công cụ hành chính vẫn là những phương thức hữu hiệu trong quản lý nhà nước. Vì vậy, pháp luật dù đã có vị trí tốt hơn, nhưng chưa thể sánh bằng các chỉ đạo, mệnh lệnh, công cụ hành chính. Ngược lại, trong điều kiện phân quyền dọc, căn cứ duy nhất để sự phân định chức năng thẩm quyền giữa các cấp chính quyền là luật pháp. Cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm cũng phải được quy định bởi luật pháp vì đây là thước đo chuẩn mực nhất cho hành vi ứng xử của các cấp chính quyền. Trong điều kiện đó, pháp luật tự nhiên có vị trí thượng tôn, được thừa nhận như là phương thức điều chỉnh hành vi. Mọi sự can thiệp thô bạo của chính quyền cấp trên với cấp dưới hoàn toàn có thể ngăn chặn bởi các quy định của pháp luật để đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền. Chính quyền cấp dưới hoàn toàn có thể khiếu kiện chính quyền cấp trên nếu có những can thiệp phi pháp, xâm hại đến quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm mà pháp luật trao cho họ.
Thứ bảy, phân quyền dọc sẽ làm thay đổi quản trị nhà nước về dịch vụ công và hành chính công
Một trong những nguyên tắc và cũng là mục đích cơ bản của phân quyền dọc là đảm bảo sự hiệu quả trong công ứng dịch vụ công. Trong mô hình phân quyền dọc, một nguyên tắc cơ bản là nơi nào cung ứng dịch vụ công tốt nhất, hiệu quả thì giao cho nơi đó thực hiện. Trong mô hình ấy, dịch vụ công sẽ được trao về các địa phương cho phù hợp nhắm đáp ứng tốt nhất nhu cầu, lợi ích của người dân địa phương.
Thứ tám, phân quyền dọc sẽ thúc đẩy giám sát, phản biện xã hội đối với chính quyền, giữa chính quyền với chính quyền.
Phân quyền dọc sẽ giúp cho người dân giám sát chính quyền địa phương tốt hơn nhờ khả năng ảnh hưởng của họ lên chính quyền. Trong mô hình cũ, lãnh đạo địa phương thường ít quan tâm đến địa phương mà chủ yếu nhìn lên lãnh đạo cấp trên vì đó là nơi quyết định cho sự nghiệp chính trị của họ. Ngược lại, khi có sự phân quyền cùng với sự minh bạch về chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm giải trình cao, người dân có thể biết được và giám sát chính quyền dễ dàng hơn. Sẽ hạn chế tối đa việc “đổ lỗi” cho chính sách, đường lối hoặc chỉ đạo của cấp trên.
Chính quyền địa phương cũng là chính quyền gần dân hơn cả nên họ phải là người hiểu người dân địa phương nhất và người dân địa phương cũng nắm rõ chính quyền nhất. Vì vậy, khi có sự minh bạch, trách nhiệm giải trình sẽ có sự phản biện xã hội mạnh mẽ và đó là động lực cho sự đổi mới, phát triển của chính quyền địa phương.
Ngoài ra, việc kiểm tra, giám sát, phản biện giữa các chính quyền với nhau cũng có cơ hội phát triển. Chính quyền cấp dưới hoàn toàn có thể phản biện và khiếu kiện chính quyền cấp trên nếu có những can thiệp phi pháp hoặc những quyết sách không phù hợp với địa phương - điều không thể có trong cơ chế tập trung trong quản lý hành chính đối với chính quyền địa phương.
4.     Kết luận
Phân quyền dọc không phải là phương thức, mô hình hay nguyên tắc mới mà đã trở nên phổ biến, được vận dụng thành công và đem lại nhiều thành tựu cho nhà nước, xã hội và người dân ở nhiều quốc gia trên thế giới. Phân quyền dọc như là một cấu thành cơ bản của phân quyền nói chung được nhận thức là sự phân định chức năng, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền đảm bảo sự bình đẳng, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền trong một phạm vi thống nhất của chủ quyền quốc gia vì mục tiêu cao nhất là phục vụ con người, vì sự tiến bộ chung của xã hội.
Phân quyền dọc không phải là sản phẩn của tư tưởng chính trị tư sản mà là giá trị được chiết xuất từ những tinh hoa nhân loại trong nghệ thuật quản trị công đã được đúc kết và trở thành một trong những xu thế phổ biến và tiến bộ trên thế giới. Tuy nhiên, để áp dụng thành công ở mỗi quốc gia nó cần được tính đến thời điểm và đặt trong mối tương quan với các điều kiện, bối cảnh cụ thể khác để có hiệu quả nhất. Nhưng, dù thế nào đi chăng nữa, cùng với quyết tâm đổi mới để phát triển, phân quyền dọc cũng sẽ dần được vận dụng phù hợp ở nước ta và cùng với đó Việt Nam sẽ xây dựng được nền quản trị tiến bộ, hiện đại và phù hợp./. 


[2] Xem: 1) Nguyễn Hoàng Anh, Trách nhiệm giải trình trong hoạt động nhà nước. in trong cuốn “Quản trị tốt: Lý luận và thực tiễn”, NXB. CTQG-ST, 2017, trang 204. 2) Báo cáo tổng quan Việt Nam năm 2035: https://openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/23724/VN2035Vietnamese.pdf
[3] Điều 11, 12 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
[4] Thủ tướng nói về văn hóa không nhúc nhích: http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/thu-tuong-viet-nam-con-co-thu-van-hoa-khong-nhuc-nhich-20170112165517541.htm (truy cập 22.7.2017)
[5] Quan điểm này tác giả cũng đã thể hiện trong bài viết: Mô hình phân quyền Liên bang Nga (Mai Văn Thắng), Tạp chí, Nghiên cứu lập pháp, số … 2012.
[6] ở Liên bang Nga, có ba cấp chính quyền phân định rõ ràng gồm: 1) Chính quyền liên bang; 2) chính quyền chủ thể liên bang; 3) chính quyền tự quản địa phương (xem thêm: Mai Văn Thắng, Bàn về tự quản địa phương ở Liên bang Nga. Tạp chí khọc học ĐHQGHN. Chuyên san Luật học, số 2/2016 ); Ở Nhật Bản, chính quyền được tổ chức ở ba cấp: cấp trung ương, cấp 1 (cấp tỉnh) và cấp 2 (cấp hạt). Tổ chức chính quyền thực hiện theo nguyên tắc phân quyền địa phương và đảm bảo tự trị địa phương. Tổ chức chính quyền theo phân quyền dọc ở Nhật Bản luôn đảm bảo nguyên tắc: Trung ương có thẩm quyền giải quyết các việc liên quan đến vị thế và sự tồn vong của quốc gia, còn những việc liên quan mật thiết đến người dân thì giao cho các cấp chính quyền địa phương;. Ở Đức chính quyền được phân thành bốn cấp. Nguyên tắc phân quyền dọc được thể hiện khá rõ và đảm bảo tự quản địa phương. Một nguyên tắc cơ bản là cái gì cấp nào làm tốt nhất thì giao cho cấp đó làm và cấp khác không làm (Xem: TS Mai Văn Thắng, Chính quyền địa phương ở Việt Nam với việc đảm bảo quyền con người. Báo cáo tổng quan Đề tài nghiên cứu khoa học thuộc Dự án của Chính phủ Đan Mạch, mã số NQ14.04, trang 117.)
[7] Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015 và các luật tổ chức liên quan trên thực tế là mở rộng quyền, trao nhiều quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho địa phương chứ chưa phải là mô hình phân quyền dọc.
[8] Dẫn theo TS. Đỗ Minh Khôi, Quản trị nhà nước hiện đại. In trong cuốn Quản trị tốt: Những vấn đề lý luân và thực tiễn. Chủ biên: PGS.TS. Vũ Công Giao, PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh, PGS.TS. Đặng Minh Tuấn, TS. Nguyễn Minh Tuấn, tr 8.
[9] Xem thêm: Mai Văn Thắng, Bàn về tự quản địa phương ở Liên bang Nga. Tạp chí khoa học ĐHQGHN, chuyên san Luật học số 2/2016 (Theo đó, rất nhiều thủ tục từ đăng ký kết hôn, ly hôn, thủ tục liên quan đến tử tuất…đều được chuyển dịch sang Tự quản địa phương)
[10] Quan điểm của PGS.TS. Chu Hồng Thanh tại Hội thảo khoa học “Nhà nước kiến tạo phát triển: Lý luận và thực tiễn trên thế giới và Việt Nam”, tổ chức tại Khoa Luật, ĐHQGHN, 2017.
[11] Xem thêm: Nhà nước kiến tạo phát triển: Lý luận và thực tiễn trên thế giới và Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học của Khoa Luật, ĐHQGHN, tháng 3/2017.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.