Thứ Hai, 27 tháng 2, 2017

Nhà nước kiến tạo phát triển trong bối cảnh văn hóa, chính trị ở Việt Nam hiện nay

ảnh Internet
                                                         TS. Mai Văn Thắng
                                                      Khoa Luật, ĐHQGHN
                        (Nguồn: Tham luận tại Hội thảo khoa học 
          "Nhà nước kiến tạo phát triển: Lý luận và thực tiễn 
                                             trên thế giới và ở Việt Nam"
                            tại Khoa Luật, ĐHQGHN, tháng 3/2017)

1.     Dẫn nhập
Nhà nước kiến tạo phát triển” (Developmental state) không phải là thuật ngữ mới,[1] nhưng hiện nay lại trở nên thời sự ở Việt Nam. Từ 2009 trên các phương tiện thông tin đại chúng thuật ngữ “Chính phủ kiến tạo phát triển” bắt đầu được nhắc đến. Trong diễn văn của Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 2011-2016 đã khẳng định “Phải chuyển mạnh từ Nhà nước điều hành nền kinh tế sang Nhà nước kiến tạo phát triển[2] và gần đây nhất là tuyên bố và nỗ lực của đương kim Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc về “Xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, Chính phủ hành động, Chính phủ phục vụ, Chính phủ liêm chính.[3]
Đây không phải là sự lựa chọn ngẫu nhiên mà bởi vì “Việt Nam còn rất ít dư địa tăng tưởng nếu vẫn tiếp tục theo mô hình quản trị, cách làm cũ[4] và xu thế hội nhập, phát triển là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh mở cửa và hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, đã có nhiều “Nhà nước kiến tạo phát triển” thành công trong khu vực[5] và trở thành hình mẫu phát triển cho nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Rõ ràng, việc chuyển đổi phương thức quản trị ở Việt Nam hiện nay là một nhu cầu tất yếu và khách quan. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là “Nhà nước kiến tạo phát triển” có thật sự phù hợp và hiệu quả trong điều kiện, bối cảnh hiện nay ở nước ta hay không? Để trả lời được câu hỏi này cần thiết phải có những nghiên cứu đầy đủ, khách quan và đa diện.
Soi vào kinh nghiệm của các quốc gia thành công với mô hình này trong khu vực, nhiều nhận định cho rằng Việt Nam phù hợp để áp dụng Nhà nước kiến tạo phát triển kiểu Đông Á.[6] Nhưng, để vận dụng thành công một mô hình quản trị nào đó cần phải tính đến nhiều yếu tố, điều kiện, bối cảnh tác động.
Thiết nghĩ, các lý thuyết thì không sai, nhưng hiệu quả phụ thuộc vào phương thức và điều kiện áp dụng và tính tương thích của nó trong bối cảnh xã hội cụ thể. Có nhiều yếu tố tác động đến quá trình ấy nhưng trong khuôn khổ bài viết nhỏ này tác giả chỉ đi sâu phân tích một số yếu tố về văn hóa và chính trị như là những yếu tố cơ bản và trên cơ sở đó chỉ ra những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng mô hình này trong bối cảnh văn hóa và chính trị Việt Nam.
Ngoài ra, trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, tác giả không có ý định phân tích nội dung tuyên bố của đương kim Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về Chính phủ kiến tạo, mà chỉ tập trung phân tích các điều kiện văn hóa, chính trị Việt Nam trong mối tương quan với mô hình nhà nước kiến tạo ở khu vực Đông Á và Singapore như những ví dụ điển hình của sự thành công và nhờ đó đem lại sự phát triển thần kỳ, thịnh vượng và thúc đẩy quá trình dân chủ hóa ở các quốc gia khu vực.
Rõ ràng, tính độc lập và sự đặc sắc của văn hóa Việt Nam so với các nền văn hóa lân bang ở Đông Á đã được các nghiên cứu uy tín khẳng định.[7] Trên phương diện chính trị, dù không phủ nhận có nhiều điểm tương đồng, nhưng khó có ai có thể khẳng định chắc chắn rằng, thể chế chính trị hiện tại của nước ta tương đồng với các quốc gia Đông Á ở thời điểm áp dụng và thành công với mô hình nhà nước kiến tạo phát triển.
Việc phân tích các yếu tố này trong mối tương quan với chú trương xây dựng mô hình nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam là cấn thiết góp phần đảm bảo cho sự phát triển và vận dụng thành công ở nước ta.
2.     Nhà nước kiến tạo phát triển trong bối cảnh chính trị Việt Nam
2.1.         Những đảm bảo, yêu cầu của nhà nước kiến tạo phát triển trên phương diện chính trị
Xét về mặt bản chất, sự can thiệp của nhà nước và xã hội được chia làm ba hình thức: Can thiệp toàn diện (nhà nước kế hoạch hóa, bao cấp), nhà nước kiến tạo phát triển (chủ động can thiệp, kiến tạo để dẫn dắt xã hội, thị trường) và nhà nước điều tiết (nhà nước ít can thiệp). Nhà nước kiến tạo phát triển được cho là mô hình giữa nhà nước điều tiết và nhà nước kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Qua các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử cùng với các điều kiện, bối cảnh khác nhau, cấp độ can thiệp của nhà nước trong mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển cũng khác nhau. Nhà nước có thể can thiệp mạnh mẽ (như mô hình các quốc gia Đông Á, Singapore) hoặc cũng có thể can thiệp một cách “mềm” hơn, thiên về “kiến tạo”, định hướng nhiều hơn và có phần tự do hơn.
Tuy nhiên, dù ở cấp độ nào đi chăng nữa, Nhà nước kiến tạo phát triển luôn cần một Chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt, tập trung quyền lực, có quyết tâm lớn, hoài bão của lãnh đạo đất nước và “sự đồng thuận” (đôi khi không phải do tự nguyện) nhằm đưa đất nước ra khỏi sự trì trệ, chậm phát triển hướng tới thịnh vượng. Bên cạnh đó, từ kinh nghiệm các nước Đông Á và Singapore cho thấy, cần phải có những gương mặt lãnh đạo có sức mạnh, uy quyền, minh triết, có quyết tâm, hoài bão và lòng yêu nước để dẫn dắt, kiến tạo đất nước phát triển.
Ở góc độ quần chúng, để vận hành thành công mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển cần sự tin tưởng mạnh mẽ, tín nhiệm của người dân vào sự lãnh đạo của chính quyền. Chính phủ và đội ngũ lãnh đạo cao cấp còn cần nhận được sự tin tưởng, tín nhiệm của đội ngũ trí thức, tinh hoa (bao gồm cả giới doanh nhân tinh hoa). Thiếu sự tin tưởng và cống hiến của đội ngũ tinh túy này khó xây dựng thành công nhà nước kiến tạo phát triển. Nhưng sự tin tưởng và ủng hộ của nhân dân và trí thức là chưa đủ, mà giới tinh hoa cần có sự độc lập, tự do để sáng tạo và cống hiến.
Ngoài ra, đội ngũ công chức có chất lượng, chuyên môn cao, có kỷ luật, đạo đức công vụ cũng là điều kiện cần thiết cho thành công của nhà nước kiến tạo phát triển. Đội ngũ này phải được tuyển chọn nghiêm ngặt, dựa trên tài năng, đạo đức và bằng những phương thức tuyển chọn minh bạch, công khai.
2.1. Bối cảnh chính trị Việt Nam với việc xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển
a) Những thuận lợi
Trên cơ sở những tiêu chuẩn và điều kiện đã áp dụng ở các mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển trong khu vực, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng thành công mô hình nhà nước kiến tạo phát triển.
Trước hết, chúng ta có hệ thống chính trị đồng bộ và nhất nguyên về tư tưởng. Hệ thống chính trị được xây dựng thống nhất từ trung ương xuống địa phương và nhất quán dưới sự lãnh đạo thống nhất và duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng có năng lực và kinh nghiệm trong tổ chức lãnh đạo đất nước trong suốt hơn 70 năm là nền tảng xây dựng thành công mô hình nhà nước kiến tạo phát triển ở nước ta. Sự lãnh đạo thống nhất, toàn diện của Đảng bằng đường lối, chủ trương, chính sách và công tác tổ chức, cán bộ giúp cho hệ thống chính trị ổn định, phát triển, nguyên tắc tập trung dân chủ làm cho sức mạnh và sự thống nhất trong Đảng được củng cố. Bên cạnh đó, việc Đảng luôn có khát vọng, quyết tâm đổi mới, tự sửa chữa những sai lầm, từng bước cải cách dân chủ hóa làm cho sức mạnh và niềm tin vào Đảng càng được củng cố, sức mạnh chiến đấu được khẳng định. Đây là những tiền đề hết sức quan trong và thuận lợi cho việc áp dụng mô hình nhà nước kiến tạo phát triển ở Việt Nam.
Khát vọng đổi mới không chỉ thể hiện trong đường lối mà còn thể hiện ở trong lời nói và hành động của những lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước. Sự chuyển dịch của hệ thống chính trị theo hướng hiện đại là một trong những thuận lợi cơ bản của chính trị Việt Nam. Điều này đã và đang được thể hiện rõ trong thời gian gần đây.
b) Những khó khăn, thách thức
Bên cạnh những thuận lợi, hệ thống chính trị Việt Nam cũng lộ ra những khó khăn, thách thức xét trên phương diện mô hình nhà nước kiến tạo phát triển.
Trước hết, là một tập thể duy nhất và thống nhất lãnh đạo đất nước, có năng lực, uy tín cao trong nhân dân, nhưng Đảng là một tập thể và sự lãnh đạo của tập thể thường ít linh hoạt, khó quyết liệt trong quản lý, điều hành đất nước trong bối cảnh thế giới luôn có biến động mạnh cần có những quyết sách nhanh nhạy, thần tốc. Hệ thống chính trị Việt Nam được thiết kế có phần khác với các nước trong khu vực, kể cả Trung Quốc. Ngoài sự thống nhất quyền lực và một chính phủ mạnh, nhà nước kiến tạo phát triển cần có lãnh tụ là trung tâm hệ thống quyền lực, có đầy đủ uy tín, sự minh triết và lòng yêu nước rất lớn. Chúng ta có một tập thể mạnh, minh triết, các lãnh tụ cao nhất của Đảng, Nhà nước có lòng yêu nước, có ý chí vươn lên nhưng dường như hiện nay hệ thống chính trị của chúng ta không cho phép quyền lực tập trung quyền lực vào một cá nhân. Điều này giúp hạn chế sự tập trung quyền lực trong bối cảnh một Đảng cầm quyền, tránh nguy cơ chuyên quyền nhưng lại cũng tạo ra khó khăn khi quyền lực không tập trung vào một lãnh tụ duy nhất, mạnh nhất như thường thấy ở Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản và thậm chí cả Trung Quốc trong giai đoạn áp dụng mô hình nhà nước kiến tạo phát triển. Các nước khu vực Đông Á và Đông Nam Á thường thành công với mô hình nhà nước kiến tạo phát triển với sự hiện diện của nhà lãnh đạo có uy quyền, thậm chí có phần độc tài. Mô hình của các nước đó là mô hình chủ nghĩa phát triển độc tài (Authoritarian Developmentalism).[8] Đề cao trách nhiệm tập thể cũng gây nhiều khó khăn cho quá trình xây dựng, vận hành nhà nước kiến tạo phát triển dù rằng trong thời gian gần đây chế độ trách nhiệm cá nhân cũng đã phần nào được đề cao.
Thứ hai, một trong những thách thức lớn là hệ thống công chức và công vụ còn nhiều hạn chế về năng lực, chuyên môn và đạo đức công vụ. Nhà nước kiến tạo phát triển sẽ khó thành công với “30% công chức không có cũng được, làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp ô về[9] và hiện diện thứ “văn hóa không nhúc nhích[10] trong cán bộ, công chức. Không chỉ yếu về chuyên môn, trong hệ thống thực thi công vụ còn hách dịch, quan liêu, tham nhũng, cửa quyền. Có hiện tượng công chức được tuyển dụng theo “kiểu con ông, cháu cha” và có xuất thân từ “người nhà”. Cơ chế tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức hiện còn bất cập, tạo kẽ hở cho việc tuyển dụng những cán bộ, công chức kém phẩm chất, đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ, chưa thật sự khuyến khích được sự cống hiến, tận tâm của bộ phận này. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cũng là một thách thức không nhỏ. Không đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao khó có được những công chức có năng lực. Do vậy, cải cách hệ thống công chức, công vụ, đổi mới công tác cán bộ và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo là yêu cầu cấp thiết bởi nếu không sự thành công của mô hình này ở Việt Nam sẽ được đặt dưới một câu hỏi lớn.[11]
Thứ ba, đội ngũ tinh hoa chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của nhà nước kiến tạo phát triển.[12] Trên phương diện chuyên môn, tầng lớp trí thức tinh hoa của Việt Nam chưa thật sự mạnh như yêu cầu. Có lẽ do có một thời gian dài hệ thống giáo dục, nền tảng khoa học công nghệ không hội nhập mạnh với thế giới hiện đại. Điều này làm cho chất lượng của giới tinh hoa chính trị có xuất thân từ trí thức không thật sự lớn mạnh, chưa tiếp cận được nhiều nền tảng khoa học hiện đại. Đây là khó khăn lớn bởi nền kỹ trị và tầng lớp tinh hoa chính trị vô cùng quan trọng trong mô hình nhà nước kiến tạo phát triển. Gần đây, trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ, khó khăn này đang dần được giải quyết, tuy nhiên số lượng tinh hoa phục vụ cho chính trị chưa thật nhiều. Số lượng tinh hoa đến từ giới doanh nhân cũng hạn chế do một thời gian dài Việt Nam khối doanh nghiệp tư nhân không thực sự được quan tâm phát triển và đây cũng là hạn chế về số lượng, chất lượng của đội ngũ này trong giới tinh hoa và đó cũng là những khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ kiến tạo, phát triển.
Ngoài ra, còn một khó khăn khác liên quan đến sự ủng hộ của giới trí thức tinh hoa. Có lẽ, từ khi mở cửa, hội nhập cho đến nay cùng với sự cởi mở trong cách tiếp cận với thế giới, sự tấn công dữ dội từ các thế lực phản động, rất nhiều trí thức Việt Nam được cho là có những thay đổi “tự chuyển hóa” về nhận thức, tư tưởng. Nhiều trí thức có những phát ngôn, hành động, bình luận chưa phù hợp dẫn tới những sai lệch trong nhận thức của một bộ phận nhân dân và đội ngũ trí thức trẻ. Điều này cũng có thể bắt nguồn từ một số bất mãn của một bộ phận trí thức chế độ chính sách, sự đãi ngộ… Vấn đề nguy hiểm này đã được Đảng nhận thức rõ và thực hiện các cuộc chỉnh đốn, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa đối với các trí thức trong Đảng. Đối với các trí thức ngoài Đảng, Đảng đã có những chính sách thu hút, đãi ngộ, dân chủ hóa, tăng cường dân chủ ở cơ sở… Những chính sách này bước đầu đã đem lại những kết quả. Tuy nhiên, để có một chính phủ hay một nhà nước kiến tạo phát triển thì cần phải có sự cộng tác, hi sinh và đồng thuận rất lớn từ đội ngũ tinh hoa này. Điều này không có nghĩa Đảng ta không có sự ủng hộ của nhóm này mà vấn đề mới chỉ ở nguy cơ và có một số những biểu hiện cần được quan tâm giải quyết thỏa đáng, bởi không có đội ngũ tinh hoa hùng hậu “phò tá” và tham gia nhiệt thành vào sự nghiệp “kiến quốc” khó có được chính sách tốt để kiến tạo phát triển và nguy hiểm hơn là khó có sự đồng thuận bởi sự ảnh hưởng của nhóm này trong xã hội là khá lớn và không thể xem thường.
3.     Nhà nước kiến tạo và bối cảnh văn hóa Việt Nam hiện nay
3.1.         Yếu tố văn hóa trong mô hình nhà nước kiến tạo
Văn hóa là gốc rễ của dân tộc, định hình lối sống, phong cách ứng xử, hành vi của cá nhân và cộng đồng. Mô hình nhà nước kiến tạo chỉ thực sự được vận hành phù hợp, hiệu quả và “sống” mạnh mẽ nếu phù hợp với các điều kiện sinh tồn, trong đó có nền văn hóa Việt Nam.
 Việt Nam có nền văn hóa đặc sắc, là sự kết tinh của bản sắc truyền thống văn hóa Việt và sự ảnh hưởng hoặc tiếp thu có chọn lọc các nền văn hóa từ bên ngoài. Dưới đây, tác giả xin tổng hợp những nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu uy tín trong lĩnh vực lịch sử, văn hóa Việt Nam để từ đó làm căn cứ phân tích về những điều kiện sinh tồn cho mô hình nhà nước kiến tạo phát triển.[13]
-         Yếu tố văn hóa làng xã, nông nghiệp, nông thôn
Không ít người nghi ngờ về tính làng xã, tính nông nghiệp trong nền văn hóa Việt Nam bởi xã hội đã có nhiều biến chuyển và làng xã dường như cũng đã thay đổi. Công nghiệp hóa, đô thị hóa đã trở thành các hiện tượng phổ biến của xã hội Việt Nam hiện đại.[14] Nhưng nhiều học giả đã khẳng định nền văn hóa Việt Nam có truyền thống nông nghiệp, làng xã với tính cộng đồng và tính tự trị cao.[15] Thậm chí GS Trần Ngọc Thêm – nhà nghiên cứu văn hóa của Việt Nam còn khẳng định, tính nông thôn, làng xã không bị mất đi trong xã hội hiện đại mà còn có xu hướng “nông thôn hóa thành thị”. Nghĩa là ngay cả khi người Việt cùng với xu hướng đô thị hóa họ đã sống ở thành thị, đã không còn canh tác nông nghiệp nữa nhưng truyền thống văn hóa nông nghiệp, tư duy nông nghiệp vẫn rất sâu đậm và còn làm nông thôn hóa thành thị. Từ những cách thức ứng xử, lối sống trong các khu chung cư, khu phố, cơ quan, công sở, thái độ làm việc, quan hệ hội nhóm đồng hương, tham gia giao thông…. Ta có thể thấy rõ sự hiện hữu của tính cộng đồng, tính tự trị và lối sống, ứng xử của một nền văn hóa nông nghiệp.[16] Ông Phan Đình Hòe đã từng khẳng định muốn tìm hiểu lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam thì phải tìm hiểu cộng đồng làng xã, và muốn xây dựng lại đất nước Việt Nam thì cũng phải bắt đầu bằng việc xây dựng lại cộng đồng làng xã. Vì không có làng xã Việt Nam thì không có quốc gia Việt Nam” [17] và “Làng là cái chìa khóa để giải mã bí mật Việt Nam, thần kỳ Việt Nam”.[18] Như vậy, dù xã hội hiện đại và đô thị hóa nhưng tính nông nghiệp và làng xã trong văn hóa Việt Nam không hề mất đi mà luôn tồn tại và phát triển, ăn sâu vào tư tưởng, nếp sống và suy nghĩ, hành vi của con người dù họ đang ở đâu, làm gì.
Nền văn hóa làng xã, nông thôn, nông nghiệp làm cho Việt Nam khác so với văn hóa ở một số quốc gia mà nhiều người vẫn cho là có sự “đồng chủng, đồng văn” ở Á Đông như Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore. Yếu tố nông nghiệp, làng xã ở Việt Nam làm dân chủ hơn, bình đẳng, cộng đồng trong ứng xử, hành vi xã hội truyền thống. Tuy vậy, tính nông nghiệp, làng xã, nông thôn trong truyền thống văn hóa cũng làm triệt tiêu cá nhân, hiện hữu chủ nghĩa cào bằng, dựa dẫm và thói ích kỷ.[19] Do tính làng xã, nông thôn trong văn hóa mà thứ bậc trong xã hội được mặc định là: Sĩ-Nông-Công-Thương.[20] Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tận ngày nay. Một xã hội trọng danh, phi thực tế.
Vậy, vấn đề đặt ra là những yếu tố này ảnh hưởng thế nào đến việc xây dựng và vận hành mô hình Nhà nước kiến tạo ở Việt Nam hiện nay?
Có thể khẳng định tính cộng đồng, đoàn kết là yếu tố có tác động tích cực đến việc vận hành nhà nước kiến tạo. Bởi xét dưới góc độ văn hóa, nhà nước kiến tạo cần có sự đồng lòng, quyết tâm và đoàn kết cao độ cùng nhau nhìn về một hướng để đạt được cái đích lớn nhất là tạo nền tảng thịnh vượng cho quốc gia.
Tuy Việt Nam là một đất nước có nền nông nghiệp, văn hóa nông thông nhưng nền văn hóa ấy lại khá đa dạng. GS. Phan Đại Doãn đã từng khẳng định tính đa nguyên của làng trong “Làng Việt Nam: Đã nguyên và chặt”. Tính đa nguyên còn thể hiện ở sự đa dạng của làng xã. Một học giả người Pháp Lorin, một nhà nghiên cứu người Pháp: “Thời tiền cổ Việt Nam là một liên bang gồm hơn 2000 tiểu vương quốc[21]. Các làng Việt có tính tự trị cao, tự quản cao hợp thành văn hóa nông nghiệp Việt Nam nhưng lại không phải là một thể thống nhất, vậy nên học giả người Pháp gọi là “2000 tiểu vương quốc”. Điều này có lẽ gây nhiều khó khăn cho tính thống nhất, tính “đồng tâm, hợp lực” cần có trong một Nhà nước kiến tạo phát triển. Tính đa nguyên, tự trị của làng, của văn hóa Việt không phải lúc nào cũng phù hợp với mô hình nhà nước kiến tạo phát triển kiểu này, đặc biệt là với các mô hình đã được áp dụng thành công ở Hàn Quốc và Singapore..
Như đã nói ở trên, văn hóa nông thôn ngoài những thuộc tính đáng trân quý vốn có, cũng để lại một số hệ lụy không mong muốn khác. Tính cộng đồng làm triệt tiêu vai trò của cá nhân, thói quen dựa dẫm, chậm chạp, cào bằng và sự ỷ lại có chỗ đứng. Nhà nước kiến tạo khó thành công và gặp trở lực nếu vai tró cá nhân bị triệt tiêu, tính tập thể sẽ làm cho quá trình ra quyết định và thực thị các quyết sách trở nên trậm trễ và đặc biệt trách nhiệm tập thể phần nào làm thủ tiêu động lực, sự nỗ lực của các cá nhân xuất sắc.
-         Yếu tố văn hóa trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo và tư tưởng

Khác với các nước Đông Á, người Việt có tính mở trong quá trình tiếp nhận các nền văn hóa và tôn giáo. Việt Nam tiếp nhận Nho giáo, Đạo giáo từ Trung Quốc và Phật giáo từ Ấn Độ. Ngoài các tôn giáo này, người Việt còn tiếp nhận Cơ đốc giáo và các loại tôn giáo khác. Khác với các tôn giáo nguyên thủy, khi vào Việt Nam, các tôn giáo đều đã có nhiều biến đổi và tương thích với truyền thống, tín ngưỡng Việt và vì thế tạo nên bản sắc riêng. Thậm chí các tôn giáo còn hòa vào nhau, chịu ảnh hưởng lẫn nhau.[22]
Ngoài yếu tố kết hợp tôn giáo, văn hóa Việt Nam khá cởi mở khi tiếp nhận nhiều truyền thống văn hóa từ bên ngoài. Từ nền văn hóa Văn Lang, do các yếu tố lịch sử, địa lý, Việt Nam còn tiếp nhận cả văn hóa Trung Quốc, văn hóa Pháp, văn hóa Xô Viết và các nền văn hóa phương Tây hiện đại. Yếu tố này làm cho văn hóa Việt khác nhiều do với các quốc gia thành công với mô hình AD ở Đông Á và Đông Nam Á.
 Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này tác giả không có tham vọng bàn về tôn giáo, văn hóa mà chỉ qua đó để thấy được sự thay đổi của tôn giáo, văn hóa và những thay đổi đó có ảnh hưởng đến lối sống, tư duy, ứng xử của người Việt trong mối tương quan với nhà nước kiến tạo phát triển, nhất là đối với các mô hình đã áp dụng ở các quốc gia khu vực.
Rõ ràng, ở một khía cạnh nào đó, Nho giáo và những tư tưởng của nó có ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng trị nước và tâm lý người dân trong việc đón nhận những tư tưởng trị nước của người lãnh đạo. Trong truyền thống, Hàn Quốc, Nhật, Trung Quốc là những quốc gia có tư tưởng Nho giáo “cứng” và triệt để hơn Việt Nam. Tư tưởng Nho giáo về người lãnh đạo, tính gia trưởng của Nho giáo và sự thuần phục của người dân đối với nhà nước đã góp phần tích cực cho thành công của mô hình AD ở các quốc gia Đông Á. Ngay cả ở Singapore, Lý Quang Diệu (một người gốc Trung Hoa) cũng đã thừa nhận dù được đào tạo ở Anh, nhưng ông là người gia trưởng và có truyền thống Nho giáo. Tính cách quyết liệt, gia trưởng của ông cũng đã góp phần làm nên một Singapore thần kỳ với mô hình AD. Ngược lại, ở Philippines, Thái Lan, dù cũng đã có những giai đoạn lịch sử mô hình AD được áp dụng nhưng rất ngắn ngủi và không thành công như kỳ vọng.[23]
Việt Nam cũng vậy. Thoạt nhìn, dường như Nho giáo Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Hoa và có nhiều điểm tương đồng với Nho giáo Trung Hoa. Tuy nhiên, khác các quốc gia Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, khi vào Việt Nam Nho giáo đã bị Việt Nam hóa bởi những ảnh hưởng của văn hóa, truyền thống làng xã, coi trọng địa vị người phụ nữ và sự kết hợp hài hòa giữa bản sắc Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ và truyền thống Việt. Ở Việt Nam Nho giáo mang bản chất “vị dân” nhiều hơn, hài hòa hơn và ít chuyên quyền, cực đoan hơn. Yếu tố này ảnh hưởng nhiều đến văn hóa chính trị Việt Nam kể cả trong quá khứ lẫn hiện tại.[24] Ở Việt Nam hiếm có nhà lãnh đạo chuyên chế mà luôn thiên hướng dân chủ, vị dân trong tư tưởng trị quốc. Trong lịch sử hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân rõ nhất của tư tưởng dân chủ, gần dân, thân dân và yêu dân. Còn các nhà lãnh đạo hiện đại, theo cảm quan của tác giả, đa phần có phong cách lãnh đạo dân túy, quan tâm nhiều hơn đến dư luận, hành động theo dư luận nhiều hơn. Điều này phù hợp với bản chất nhà nước dân chủ.
Dân túy, dân chủ quan tâm đến dư luận là những điều cần thiết trong thể chế dân chủ và nhà nước kiến tạo phát triển cũng cần những nhiều đó. Tuy vậy, để thành công với mô hình nhà nước kiến tạo cần có những nhà lãnh đạo kiên quyết, “chuyên quyền” hơn và dám chịu trách nhiệm hơn. Trong nhà nước kiến tạo sự quyết liệt và vai trò trung tâm của nhà nước là vô cùng quan trọng. Các lãnh đạo có xu hướng dân túy sẽ khó có được sự quyết liệt cần thiết trong quản lý, điều hành. Lãnh đạo quá cân nhắc, quan tâm đến dự luận, hành động theo dư luận (đặc biệt trong bối cảnh tự do xuất bản, mạng xã hội phát triển mạnh như hiện nay) chưa hẳn lúc nào cũng đã phù hợp cho một phong cách nhà lãnh đạo trong mô hình nhà nước kiến tạo phát triển.
Trong tín ngưỡng, nhân sinh quan, người Việt chuộng triết lý âm dương. Vậy nên trong đời sống người Việt, kể cả sinh hoạt, ăn uống… luôn chú trọng đến cái hài hòa giữa âm và dương. Trong âm có dương và trong dương có âm. Mọi sinh hoạt của người Việt gần như ảnh hưởng yếu tố đó. Về bản thể vũ trụ, vì theo thuyết âm dương nên người Việt có triết lý sống hài hòa, quân bình chủ nghĩa, luôn lạc quan và khả năng thích ứng cao. Về cấu trúc không gian vũ trụ người Việt luôn khẳng định Tam tài  là thuần âm, thuần dương và kết hợp âm dương: Thiên (Dương) - Địa (Âm) – Nhân (Âm-Dương) và Cha (Dương) - Mẹ (Âm) - Con (Âm và Dương) và Ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) có tương sinh tương khắc. Về thời gian, người Việt luôn đặt các ngày trong tháng theo mặt Trăng, nhưng lại đặt các tháng trong năm theo mặt Trời. Yếu tố âm dương này kết hợp với truyền thống nông nghiệp, văn hóa làng xã đã làm cho tính trung dung, tính hài hòa, tính vô vi ngày càng được củng cố. Thuộc tính này làm cho sự thiếu kiên quyết, mạnh mẽ bị thủ tiêu đi nhiều, lãnh đạo cũng có xu hướng trung dung, hài hòa và không làm quá cái gì lên và theo đó sự kiện quyết cũng bị hạn chế - Những điều cần thiết trong xã hội có sự vận hành của nhà nước kiến tạo, phát triển.
-         Tính trọng tình, tôn vinh những giá trị đạo đức
Người Việt trọng tình và luôn đề cao các giá trị đạo đức là một đặc trưng khá phổ biến và được thừa nhận. Nguồn gốc của thuộc tính này chúng ta không bàn đến ở đây, nhưng rõ ràng đặc trưng văn hóa này có tác động không nhỏ tới sự thành công của việc vận dụng mô hình nhà nước kiến tạo ở nước ta.
Trọng tình và đề cao giá trị đạo đức làm cho người Việt dễ bỏ qua những sai lầm, sẵn sàng gắn kết vì mục tiêu chung khi cần thiết. Không cần biết đúng sai về lý, chỉ cần người dân cảm nhận thấy hoặc thông qua hành động của mình những lãnh đạo thể hiện là người có đạo đức, quan tâm đến dân, thương dân là tấm gương về lối sống, đạo đức xã hội thì họ sẵn sàng nghe theo, tin tưởng và hưởng ứng. Yếu tố này rất thuận lợi cho những nhà lãnh đạo có tầm và có tâm để có thể có được sự ủng hộ của dân chúng để thực hiện nhiệm vụ của mình, thậm chí trong quá trình thực hiện họ có thể chuyên quyền, độc đoán nhưng miễn là họ có tâm với dân thì được dân ủng hộ.
Ngoài những yếu tố kể trên, các yếu tố về văn hóa giao tiếp, văn hóa ẩm thực, thờ cũng tổ tiên… cũng là các yếu tố văn hóa có tác động lên tư duy, tư tưởng và hành vi ứng xử của cộng đồng. Tính dung hòa, khả năng thích nghi cao, tính cục bộ và một nền nông nghiệp còn phổ biến cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới việc thành công của mô hình kiến tạo phát triển ở Việt Nam hiện nay.

4.     Thay lời kết

Không thể có một mô hình nào là phù hợp với mọi quốc gia, dân tộc, xã hội. Lịch sử đã chứng minh điều đó. Với việc áp dụng linh hoạt mô hình nhà nước XHCN chúng ta đã và đang có những thành công quan trọng mặc dù một số quốc gia xây dựng theo mô hình truyền thống đã bị khủng hoảng và tan rã.
 Câu hỏi được đặt ra là, tại sao có nhiều quốc gia không cần mô hình nhà nước kiến tạo nhưng vẫn thành công, thậm chí là phổ biến và liệu nhà nước kiến tạo có thực sự phù hợp cho Việt Nam lúc này không hay là chúng ta có thể “kiến tạo phát triển” theo mô hình riêng dựa trên những bài học kinh nghiệm của các quốc gia và phù hợp với điều kiện, bối cảnh Việt Nam hiện nay. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để trả lời cho câu hỏi trên, nhưng có một sự thật là nếu không có một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt và chủ động dẫn dắt, can thiệp  để kiến tạo phát triển thì sự phát triển “thần kỳ” sẽ rất khó xảy ra.
Những phân tích ở trên có thể thấy, có rất nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn và thách thức dù mới chỉ được nhìn nhận trên một vài phương diện của lĩnh vực văn hóa, chính trị. Còn rất nhiều những tác nhân quan trọng khác không thể bỏ qua, như yếu tố thuộc về kinh tế, địa chính trị, thời điểm,…. Nhưng dù sao, chúng ta đã có những quyết tâm và dường như ở thời điểm hiện tại mô hình đó có vẻ phù hợp và cần thiết cho Việt Nam hơn cả.
Trên cơ sở những phân tích ở trên, tác giả đưa ra một số khuyến nghị sau:
Thứ nhất, trước hết cần chỉnh đốn Đảng, dân chủ trong Đảng để Đảng “thật sự là đạo đức là văn minh”. Đây không phải là câu nói mang tính chất tuyên truyền bởi lẽ, trong mối tương quan với truyền thống văn hóa của người Việt, người dân chỉ có thể đặt niềm tin và đi theo một chính Đảng với các đảng viên thật sự trong sạch, gương mẫu, là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống và là tập thể đoàn kết gồm những cá nhân xuất sắc, có trí tuệ, lòng yêu nước nhiệt thành và trọng dân.
Trong bối cảnh hiện nay, để thành công với mô hình nhà nước kiến tạo phát triển thì cần có sự thống nhất, tập trung cao độ về quyền lực để có thể giải quyết nhiều vấn đề mà mô hình nhà nước này đòi hỏi. Tập trung quyền lực vào một cá nhân có lẽ không phải là xu hướng mà nền chính trị Việt Nam muốn hướng đến (dù rằng đó cũng là một phương án không tệ trong bối cảnh của nhà nước kiến tạo phát triển) nhưng tập trung quyền lực vào Đảng, đặc biệt là những đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng là cần thiết. Vì vậy, cần phải xây dựng một tập thể lãnh đạo cấp cao có sức mạnh thực sự, nhận được sự tin tưởng, đồng thuận cao trong Đảng và trong Nhân dân. Để làm được việc này cần phải luôn luôn xây dựng và chỉnh đốn Đảng, dân chủ hóa mạnh mẽ trong Đảng, đổi mới bầu cử trong Đảng và thiết lập kỷ luật Đảng, và tập trung xây dựng bảo vệ đạo đức Đảng viên, lựa chọn lãnh đạo thật sự năng động, quyết đoán, tài năng và đạo đức trong sáng.
Thứ hai, tập trung đổi mới mạnh mẽ hệ thống giáo dục và đào tạo để xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao, hội nhập với các tiêu chuẩn quốc tế. Không quốc tế hóa giáo dục khó có đội ngũ công chức và người lao động chuyên nghiệp để phục vụ sự nghiệp kiến tạo, phát triển.
Thứ ba, tạo cơ chế cởi mở thu hút người tài, đặc biệt là đội ngũ trí thức tinh hoa. Cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức, viên chức cần phải đảm bảo công khai, minh bạch và bình đẳng. Đối với đội ngũ trí thức tinh hoa thì cần phải tạo cơ chế thu hút để xây dựng nền kỹ trị thực thụ phục vụ nền quản trị hiện đại trong bối cảnh cần có những chính sách kiến tạo phù hợp, chính xác, khoa học và có tầm nhìn.
Thứ tư, đổi mới mạnh mẽ hệ thống chính trị nhằm giảm tình trạng sử dụng ngân sách chi thường xuyên cho hệ thống tổ chức chính trị-xã hội với bộ máy cồng kềnh, làm việc kém hiệu quả. Trong bối cảnh hiện nay, tiết kiệm nguồn lực để tập trung cho những nhiệm vụ, chính sách kiến tạo là cần thiết và vô cùng quan trọng.
Thứ năm, xây dựng văn hóa và đạo đức công vụ trong bộ máy hành chính và chính quyền các cấp. Kỷ luật hành chính phải được thực thi nghiêm chỉnh và công bằng.
Thứ sáu, cấp thiết phải đổi mới công tác tư tưởng và tuyên truyền. Muốn thành công với mô hình nhà nước kiến tạo phát triển cần có hệ thống các cơ quan làm công tác tư tưởng và tuyên truyền hiệu quả, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, đức hi sinh, đấu tranh với thói hư tật xấu, sự ỷ lại, chia rẽ, bè phái, cào bằng, cục bộ địa phương - những tính chất được cho là thói xấu của hành vi, ứng xử và, quan trọng hơn, tạo sự thống nhất cao độ về nhận thức, tư tưởng, đoàn kết đồng lòng để xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt, tạo niềm tin mạnh mẽ để chính quyền có thể tập trung xây dựng chính sách kiến tạo, phát triển.
Trên đây là những gợi ý liên quan đến chính trị và văn hóa. Tuy nhiên, thiết nghĩ, chính quyền kiến tạo phát triển chỉ có thể thành công khi có một môi trường sinh tồn phù hợp. Điều đó có nghĩa, không chỉ có môi trường văn hóa, chính trị mà còn môi trường thể chế, kinh tế, con người và yếu tố thời đại. Các yếu tố đó phải hoàn thiện đê tạo môi trường phù hợp thì mới có một nhà nước kiến tạo phát triển vận hành thực sự thành công.
Những dấu hiệu bước đầu cho thấy những nỗ lực đổi mới mạnh mẽ của lãnh đạo đất nước nhằm tạo động lực mới cho sự phát triển của đất nước và bằng cảm nhận chủ quan rất có thể chúng ta sẽ có một nhà nước kiến tạo phát triển đặc trưng và phù hợp để hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh./.






[1] Thuật ngữ này được Chalmers Johnson sử dụng lần đầu về mặt học thuật vào năm 1982. Xem trên: Leftwitch, Adrian, "Bringing politics back in: Towards a model of the developmental state", Journal of Development Studies, Volume 31, Issue 3 February 1995, pages 400-427
[4] Theo Báo điện tử Hà Nội mới ( truy cập ngày 11/7/2016)  http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Suy-ngam/840364/nha-nuoc-kien-tao---mot-cuoc-cai-cach-trong-doi-song-kinh-te---xa-hoi.
[5] Có thể lấy ví dụ các mô hình điển hình ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan…
[6] Một số học giả, tiêu biểu như Vũ Minh Khương, NGuyễn Sĩ Dũng cũng có những nhận định tương tự. Chẳng hạn, GS.TS. Vũ Minh Khương cho rằng có nhiều quốc gia tương đồng với Việt Nam, đặc biệt là Singapore (Tất nhiên theo GS, yếu tố giàu có tài nguyên của chúng ta là khác biệt). Xem trên Tạp chí Cộng sản điện tử, truy cập ngày 12/1/2/2016: http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Thong-tin-ly-luan/2016/42465/Thong-tin-khoa-hoc-chuyen-de-Nha-nuoc-kien-tao-phat-trien.aspx.
[7] Các nhà nghiên cứu như: Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng, Ngô Đức Thịnh…đã có nhiều công trình tiêu biểu để khẳng định về nền tảng của nền văn hóa Việt Nam.
[8] Ví dụ Park Chung-hee, Chun Doo-hwan ở Hàn Quốc; Lý Quang Diệu, Gon Chok Tong ở Singapore; Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, ở Trung Quốc,
[11] Theo C. Jonhson, đầu tư mạnh và liên tục cho giáo dục là yêu cầu cần thiết và là dấu hiện của Nhà nước kiến tạo phát triển. Xem: Chalmers Jonhson, Political institutions and economic performance: The government-business relationship in Japan, South Korea and Taiwan, in Asian Economic Development: Present and Future, 1985, tr. 73-89
[12] Theo Adrian Leftwich, thì một trong 6 tiêu chí của nhà nước kiến tạo phát triển là có tầng lớp tinh hoa gần gũi với nhà nước. Xem: Adrian Leftwich, Bringing politics back in: Towards a model of the developmental state, The Journal of Development Studies, 31 (3), tr. 400-427
[13] Tổng hợp từ những nghiên cứu của các nhà nghiên cứu nổi tiếng về văn hóa, lịch sử như: Nguyễn Văn Giàu, Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm, Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc và một số nhà nghiên cứu khác.
[14] Ví như PGS.TSKH Nguyễn Hải Kế đã có những phân vân khi nghiên cứu những thay đổi của làng ở ngoại thành Hà Nội: Xem: Nguyễn Hải Kế, Làng Việt với phố, trước phố: Truy cập trên http://khoalichsu.edu.vn/lang-viet-voi-pho-truoc-pho-pgs-tskh-nguyen-hai-ke/.
[15] Được khẳng định trong nhiều nghiên cứu của GS Trần Ngọc Thêm, Trần Quốc Vượng, Phan Đại Doãn…
[16] Xem thêm Cơ sở văn hóa Việt Nam của GS Trần Ngọc Thêm, NXB Giáo Dục, 1999.
[17] Vũ Đình Hòe, Hồi ký Thanh Nghị, NXB. Hà Nội, Hà Nội, 1997. Tr. 318.
[18] Dẫn theo Lời giới thiệu sách của GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc “Làng – Đa nguyên và chặt”. NXB. ĐHQGHN, 2006.
[19] Theo GS. Trần Ngọc Thêm. Cơ sở văn hóa Việt Nam. NXB, Giáo Dục, 1999, 336 tr.
[20] Trần Ngọc Thêm, Sđd.
[21] Dẫn theo: Nguyễn Minh Tuấn, Dân chủ ở xã  từ góc nhìn pháp lý. NXB. CAND, Hà Nội, 2006. tr.46.
[22] Chẳng hạn, Hòa Hảo, Cao Đài là kết tinh của những ảnh hưởng của các tôn giáo, tư tưởng khác nhau.
[23] Như giai đạo Tổng thống Marcos ở Philippines, Thack sin ở Thái Lan.
[24] Thời Lê là thời kỳ đỉnh cao của Nho giáo và trở thành hệ tư tưởng chính thống nhưng Nho giáo được thể hiện ở Việt Nam rất vị dân, gần gũi và hài hóa hơn Trung Hoa. Các văn bản pháp điển, sử ký thời này cho thấy rõ điều đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.