Thứ Bảy, 22 tháng 4, 2017

Chiến thuật tham gia, bảo vệ của luật sư đại diện bị hại trong Tố tụng hình sự ở Nga và những gợi mở cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay

Gorsky Vadim Vadimovich
Faculty of Law, Voronezh State University, Russia
TS. Mai Văn Thắng
School of Law, Vietnam National University, Hanoi

Nguồn: Tạp chí Khoa học ĐHQGHN
Luật học, Vol 33, 1/ 2017

Tóm tắt: Bài viết bàn về chiến thuật tham gia, bảo vệ của luật sư đại diện cho người bị hại trong Tố tụng hình sự Liên bang Nga và phân tích những xu hướng phát triển trong hoạt động nghiên cứu về loại chiến thuật này trong khoa học điều tra hình sự xuất phát từ những thay đổi về tư duy cũng như các nguyên tắc pháp luật hình sự trong hệ thống pháp luật Liên bang Nga hiện đại. Trên cơ sở những phân tích trường hợp Liên bang Nga, nhóm tác giả đưa ra một số gợi mở cho Việt Nam trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư pháp, đảm bảo tranh tụng trong xét xử và đổi mới hoạt động đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Chiến thuật, luật sư, bị hại, tố tụng hình sự, Liên bang Nga
Đặt vấn đề
Pháp luật Việt Nam hiện đại đã ghi nhận “Đảm bảo tranh tụng trong xét xử” [1] là một trong những nguyên tắc hiến định. Dù nội hàm không hoàn thiện như “Tố tụng tranh tụng[1], nhưng không thể phủ nhận “Đảm bảo tranh tụng trong xét xử” là một phần quan trọng của “Tố tụng tranh tụng” và là thành tựu đáng khích lệ của công cuộc cải cách tư pháp được tiến hành ở nước ta suốt nhiều năm qua. Tuy nhiên, dường như có sự mặc định trong tư duy lý luận và thực tiễn khi cho rằng tranh tụng là sự đối kháng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội.

Xuất phát từ những nghiên cứu về địa vị pháp lý, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong pháp luật Tố tụng hình sự (TTHS) Nga và Việt Nam, chúng tôi nhận thấy nếu tiếp cận như trên thì quyền, lợi ích của người bị hại trong TTHS khó có thể được đảm bảo và, quan trọng hơn, làm cho nội hàm nguyên tắc tố tụng tranh tụng trở nên hạn hẹp.
Tranh tụng xuất hiện khi có đối kháng về lợi ích. Người bị hại trong rất nhiều trường hợp có lợi ích trùng với bên buộc tội, nhưng cũng có thể đối kháng về lợi ích với bên buộc tội, đồng lợi ích với bên gỡ tội. Vậy nên, để bảo vệ tối đa, hiệu quả quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, luật sư cần có vị thế, quan điểm, chiến lược riêng, không thể và không nên mặc định là họ luôn có quan điểm trùng với bên buộc hay bên gỡ tội trong thực tiễn tố tụng.
Do vậy, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn cũng như những thay đổi của pháp luật và trong lĩnh vực khoa học điều tra hình sự ở Nga phát triển một số hướng nghiên cứu mới chúng tôi tiếp cận để thực hiện nghiên cứu. Hướng nghiên cứu này không chỉ vượt ra khỏi giới hạn, phạm vi của khoa học điều tra hình sự Xô Viết truyền thống mà còn hướng tới xây dựng, hoàn thiện cơ sở khoa học cho hoạt động chuyên nghiệp của tất cả các chủ thể tố tụng, trong đó có luật sư đại diện cho bị hại. Đến nay ở Việt Nam còn thiếu vắng những công trình nghiên cứu đầy đủ, toàn diện liên quan đến lĩnh vực khoa học về chiến lược, chiến thuật tham gia và bảo vệ của luật sư trong các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại trong TTHS.
Từ cách tiếp cận trên, trong bài viết này chúng tôi giới thiệu những quy định và hướng nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực khoa học mới mẻ cả ở Nga và Việt Nam về chiến lược tham gia và bảo vệ của luật sư đại diện bị hại trong TTHS Liên bang Nga với tư cách là một chủ thể đặc biệt qua đó, một mặt, khẳng định cách tiếp cận rộng nội hàm nguyên tắc Tố tụng tranh tụng, mặt khác, qua bài viết này nhóm tác giả cũng mong muốn đưa ra một số gợi mở hoàn thiện thực tiễn tố tụng cũng như hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý, đặc biệt là làm mới hướng nghiên cứu về chiến thuật, kỹ thuật như là một hợp phần của lĩnh vực “Khoa học điều tra hình sự” vốn dĩ chỉ mặc định cho điều tra viên, công tố, kiểm sát viên, và vì lý do đó thường chỉ được nghiên cứu trong các trường đào tạo nghiệp vụ điều tra ở nước ta hiện nay.
1.       Chiến thuật điều tra hình sự và ý nghĩa của sự phát triển hướng nghiên cứu về chiến thuật tham gia, bảo vệ của luật sư đại diện cho bị hại trong tố tụng tranh tụng ở Nga
Như đã bàn tới ở trên, tranh tụng là thuật ngữ có mối liên hệ chặt chẽ với sự đối kháng. Chiến thuật đối kháng là một trong những hợp phần quan trọng của “Khoa học điều tra hình sự” ở Nga – “Chiến thuật điều tra hình sự”.[2] Hiểu một nghĩa rộng nhất, thuật ngữ “chiến thuật” (Tiếng Anh: tactics; Tiếng Nga: тактика) là phương thức hành động ở những nơi và chỉ ở những nơi xuất hiện sự cần thiết phải phòng vệ, cảnh báo và (hoặc) loại bỏ sự đối kháng trực tiếp hay gián tiếp nhằm đạt được lợi thế tối cao về lợi ích cho chủ thể đang gặp hoàn cảnh đó <…>. Dù ở bất cứ đâu, miễn là có những mâu thuẫn đối kháng tiềm tàng hay hiển hiện và cần thiết phải cảnh báo, phòng vệ hoặc loại bỏ một sự đối kháng nào đó thì đó là chiến thuật” [2]. Vậy nên, sự hiện diện của nguyên tắc tố tụng tranh tụng trong TTHS là một trong những nền tảng của hoạt động mang tính chiến thuật tố tụng của tất cả các chủ thể chuyên nghiệp tham gia vào TTHS, trong đó có luật sư đại diện cho người bị hại.
Nhận thức thống nhất về khái niệm “Chiến thuật điều tra hình sự” là vô cùng quan trọng bởi nếu không được định rõ từ trước sẽ có những nhầm lẫn về những khảo cứu của các tác giả do những yếu tố lịch sử và ngôn ngữ để lại.
Ở Nga, trong đầu thế kỷ XX thuật ngữ “Chiến thuật điều tra hình sự” được hình thành như là hướng nghiên cứu các đặc điểm về chiến thuật trong hoạt động của điều tra viên. Vậy nên, cho đến thời điểm hiện tại “Chiến thuật điều tra hình sự”, dù vẫn là hợp phần của “Khoa học điều tra hình sự” (Tiếng Anh: Criminalistics; Tiếng Nga: Криминалистика) và những lĩnh vực được nghiên cứu bài bản, đầy đủ, đồ sộ nhất vẫn là những nghiên cứu liên quan đến chiến lược điều tra của điều tra viên. Do yếu tố lịch sử và ngôn ngữ nên ngay cả tên gọi “Chiến thuật điều tra hình sự” (Tiếng Nga: Криминалистическая тактика) đã thể hiện rõ đây là lĩnh vực nghiên cứu khoa học về điều tra hình sự và các chủ thể tiến hành các hoạt động đó chỉ là điều tra viên, kiểm sát viên, công tố viên. Tên gọi này được dịch ra tiếng Việt cũng mang hàm ý như vậy và đến nay trong khoa học và thực tiễn vẫn dùng với ý nghĩa đó.
Cùng sự phát triển của khoa học và những thay đổi về nhận thức, tư duy, sự ghi nhận nguyên tắc tố tụng tranh tụng như là một nguyên tắc nền tảng trong TTHS, trong phạm vi lĩnh vực mà quen gọi là “Chiến thuật điều tra hình sự” của Khoa học điều tra hình sự đã xuất hiện hai phân hệ nghiên cứu độc lập mới: 1) Chiến thuật của các chủ thể chuyên nghiệp đối kháng lại các hoạt động điều tra, và 2) Chiến thuật của điều tra viên, công tố viên. Điều này làm cho nội hàm của khoa học “Khoa học điều tra hình sự” không còn hạn hẹp trong lĩnh vực “điều tra” và “hình sự” và không chỉ dành cho điều tra viên, công tố viên nữa.
Vấn đề là ở chỗ, luật sư cũng có thể tham gia với nhiều tư cách. Họ có thể tham gia vào quá trình tố tụng với tư cách luật sư của bị can, bị cáo và cũng có thể tham gia với tư cách là luật sư của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và bị hại khác trong TTHS. Như vậy, ngoài luật sư bào chữa hay luật sư buộc tội, trong TTHS có chủ thể chuyên nghiệp khác tham gia vào hoạt động tố tụng với tư cách luật sư đại diện quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị hại. Đây là một chủ thể đặc biệt bởi trên thực tế luật sư bị hại có thể đứng về phía bên buộc tội nhưng cũng có thể chống lại các điều tra viên, kiểm sát viên… vì lợi ích của thân chủ. Trong cùng một vụ việc họ có thể đứng về phía bên này hoặc bên kia tùy vào thời điểm và lợi ích của người bị hại. Vì vậy, họ cần được trang bị cơ sở lý luận và pháp lý cũng như những kiến thức, kỹ năng rất đặc thù để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong hoạt động tố tụng.
Sự phát triển của hoạt động và thực tiễn TTHS ở Nga đã làm thay đổi quan niệm mặc định về chiến thuật trong TTHS. “Chiến thuật” không chỉ là phân ngành của “Khoa học điều tra hình sự” vốn được mặc định với điều tra viên, công tố viên mà còn dành cho các chủ thể chuyên nghiệp tham gia vào hoạt động TTHS. Trong khoa học pháp lý ở Nga, cho đến tận gần đây nghiên cứu những luận cứ khoa học như là một cấu thành của khoa học pháp lý để cung cấp những luận cứ về chiến thuật giúp luật sư bị hại thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ, thuyết phục. Những công trình đầu tiên bàn về vấn đề này ở Nga là công trình của GS. Baev O.Ya [3][3] và Gorsky V.V. [4]
Như vậy, với những nghiên cứu đầu tiên về chiến thuật tham gia và bảo vệ của luật sư đại diện bị hại trong TTHS Liên bang Nga, tư duy về một lĩnh vực khoa học “Khoa học điều tra hình sự” truyền thống đã có nhiều thay đổi. Đây không phải chỉ là lĩnh vực khoa học bàn về cơ sở khoa học và thực tiễn của chiến thuật, chiến lược điều tra của điều tra viên, kiểm sát viên, công tố viên mà còn là lĩnh vực khoa học chiến thuật, chiến lược tham gia của tất cả các chủ thể trong hoạt động tố tụng, bao gồm cả chủ thể chuyên nghiệp tham gia gỡ tội. Ngoài ra, hiện nay lĩnh vực khoa học này còn bao gồm cả những nghiên cứu về chiến thuật, chiến lược của người bào chữa, người đại diện cho bị hại - một chế định độc lập trong TTHS Liên bang Nga. Điều này có ý nghĩa lớn khi khẳng định tố tụng tranh tụng không chỉ bao gồm đối kháng giữa bên buộc và bên gỡ mà còn cần phải được hiểu rộng hơn như là sự cân bằng về địa vị pháp lý, đối kháng về quyền, lợi ích của tất cả các chủ thể trong mọi giai đoạn của quá trình tố tụng cũng như có đầy đủ địa vị pháp lý nhằm đòi hỏi quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2.       Đặc thù về quyền, lợi ích và nghĩa vụ pháp lý của bị hại, luật sư bị hại như là cơ sở pháp lý và khoa học phát triển lĩnh vực khoa học về chiến thuật của luật sư đại diện bị hại trong TTHS đáp ứng yêu cầu nguyên tắc tố tụng tranh tụng ở Nga
Trong khoa học pháp lý ở Nga hiện nay, “Khoa học điều tra hình sự” khá phát triển, được nghiên cứu và giảng dạy ở tất cả các cơ sở đào tạo luật chứ không chỉ dành riêng cho hệ thống trường đào tạo của Bộ Nội vụ. Bên cạnh đó, đối tượng nghiên cứu của khoa học này đã không chỉ dừng lại ở những nghiên cứu về cơ sở lý luận liên quan đến chiến lược, kỹ thuật, chiến thuật của điều tra viên, kiểm sát viên mà còn mở rộng sang những đối tượng nghiên cứu khác, trong đó có luật sư.
Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, trong khoa học pháp lý của Nga, đặc biệt là khoa học điều tra hình sự vẫn chưa có hướng nghiên cứu về cơ sở lý luận của chiến thuật bảo vệ thân chủ của luật sư đại diện cho bị hại trong TTHS. Bằng những nghiên cứu của mình, chúng tôi nhận thấy, chiến lược của luật sư bào chữa và luật sư bị hại hay luật sư buộc tội là rất khác nhau. Luật sư đại diện cho bị hại trong TTHS có tư cách pháp lý riêng, có lợi ích, mục đích riêng và vì vậy chiến lược, sách lược của chủ thể này không thể tương thích với những chủ thể hay luật sư khác. Điều này dẫn tới nhu cầu phải có một lĩnh vực khoa học riêng, chuyên biệt cho chủ thể đặc biệt này.
Luật sư đại diện bị hại tham gia vào TTHS để bảo vệ quyền, lợi ích của thân chủ và thực hiện trợ giúp pháp lý cho họ. Vì vậy, tất cả các hoạt động liên quan đến chiến thuật của chủ thể này đều phụ thuộc vào vị trí và quan điểm của người bị hại – nghĩa là thân chủ của luật sư.
Người bị hại có thể tham gia vào vụ việc với mục đích vạch trần kẻ đã thực hiện hành vi phạm tội chống lại mình, yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự, đòi bồi thường thiệt hại mà hành vi phạm tội đã gây ra hoặc có thể vì những lý do nào đó mà “lại đứng về phía người phạm tội” hay hòa giải với  người phạm tội (hoặc bị can, bị cáo). Ngoài ra, một yếu tố khác làm nảy sinh nhu cầu đại diện và bảo vệ người bị hại là mức độ phù hợp giữa quan điểm của bị hại với quan điểm của điều tra viên (công tố viên) về một số vấn đề của vụ việc hay trong một công đoạn nào đó của TTHS. Điều hoàn toàn có thể làm cho cơ sở chiến thuật cũng như vị trí, vai trò của luật sư bị hại thay đổi từ đối kháng với bên gỡ tội chuyển sang đối kháng với các cơ quan, người tiến hành điều tra, truy tố tội phạm.
Với tư cách là bên luận tội, luật sư đại diện cho bị hại là người tham gia tố TTHS từ phía luận tội, giống như nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành việc đều tra, truy tố bị can, bị cáo. Luật sư của người bị hại có thể thực hiện hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự kể từ thời điểm mà thân chủ của anh ta thông báo về một hành vi phạm tội được thực hiện có liên quan đến thân chủ. Tính chất luận tội trong hoạt động của luật sư bị hại thể hiện rõ nhất ở trường hợp khi các cơ quan công quyền từ chối khởi tố vụ án và điều này ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại. Trong trường hợp này luật sư của bị hại là người có chuyên môn gần như là duy nhất còn lại giúp người bị hại khôi phục quyền, lợi ích đã bị hành vi phạm pháp xâm hại. Luật sư đại diện cho nạn nhân sẽ phải sưu tập và trình ra cho các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét hoặc khiếu nại (bao gồm cả tòa án) những chứng cứ không chỉ liên quan đến sự kiện phạm tội mà còn các cấu thành khác của tội phạm: như tính chất và mức độ thiệt hại mà tội phạm đã gây ra cho thân chủ của anh ta.
Nếu thân chủ của luật sư bị hại (nạn nhân của tội phạm) biết chính xác ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội đó, thì luật sư bị hại còn cung cấp những thông tin khẳng định sự can dự của người đó vào vụ việc và đôi khi (phụ thuộc vào loại tội phạm cụ thể) còn phải khẳng định hình thức lỗi, động cơ, mục đích của hành vi của người đó.
Những thông tin, chứng cứ của luật sư bị hại trong trường hợp này cần thiết để thuyết phục tòa án và các nhà chức trách có thẩm quyền khác hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án và chỉ ra cho thẩm phán hay các nhà chức trách thấy việc cần thiết phải tiếp tục điều tra, khởi tố, xét xử. Tất cả các hoạt động đó của luật sư đại diện cho bị hại không là gì khác mà cũng chính là hoạt động điều tra hình sự.
Như vậy, luật sư bị hại đôi khi là những thành viên tích cực tham gia tố tụng từ phía luận tội, thậm chí họ thường sẽ tích cực hơn tất cả các cá nhân, tổ chức khác khi tiến hành hoạt động điều tra hình sự trong tất cả mọi công đoạn của tố tụng hình sự nhằm bảo vệ quyền lợi ích của thân chủ mình.
Tuy nhiên, pháp luật hình sự Nga hiện chưa quy định rõ ràng những quyền và nghĩa vụ của đại diện bị hại, trong khi đó từ phía người bảo vệ (nghĩa là đại diện của bên gỡ tội - luật sư gỡ tội) quyền của luật sư gỡ tội lại được quy định rõ ràng, chi tiết tại Điều 53 Bộ luật TTHS Liên bang Nga hiện hành.
Điều 45 Bộ luật TTHS Nga hiện hành, người đại diện theo pháp luật và người đại diện của bị hại, nguyên đơn dân sự, hoặc của người giữ quyền tư tố có những quyền tố tụng giống như quyền tố tụng mà những người được họ đại diện đang có. Tuy nhiên, có thể thấy, khối lượng quyền mà người đại diện cho bị hại có được hoàn toàn phụ thuộc vào ý nguyện của người bị hại và được thể hiện ở trong Giấy ủy quyền [5]. Theo Mục 4 Khoản 2 Điều 42 Bộ luật TTHS Liên bang Nga bị hại và người đại diện cho người bị hại có quyền xuất trình chứng cứ. Khoản 2 Điều 86 Bộ luật TTHS Liên bang Nga “Thu thập chứng cứ” nghĩa là khi bị can, bị cáo và cả người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người đại diện của họ có thể thu thập và xuất trình những giấy tờ và vật để đưa vào vụ án với tư cách là các chứng cứ của vụ án.
Nhưng cũng ngay điều luật đó lại có quy định chi tiết về việc luật sư của bị can, bị cáo lại có quyền thu thập chứng cứ bằng các phương thức sau: 1) Nhận những đồ vật, văn bản giấy tờ (không chỉ là những loại văn bản dưới dạng viết) và cả những loại thông tin khác; 2) Lấy lời khai của những người có liên quan nếu được sự đồng ý; 3) Yêu cầu cung cấp những giấy tờ, nhận xét hoặc những văn bản từ các cơ quan nhà nước, cơ quan tự quản địa phương, các tổ chức xã hội và khi được yêu cầu các cơ quan tổ chức này phải cung cấp những giấy tờ đó hoặc là dưới dạng bản sao chụp. Trong điều luật này lại không hề quy định chi tiết các quyền mà luật sư bị hại hoặc bị hại được những quyền gì trong thu thập chứng cứ [6]. Thiết nghĩ, việc pháp luật quy định những quyền này cho người bảo vệ (phía gỡ tội) là thỏa đáng. Tuy nhiên, thật khó hiểu tại sao pháp luật TTHS lại trao cho đại diện cho bên buộc tội (luật sư bị hại) và bên gỡ tội những điều kiện khác nhau và bất bình đẳng.
Điều 6 của Luật hoạt động luật sư và nghề luật sư của Liên bang Nga thì quy định, luật sư không phụ thuộc vào việc anh ta đang hỗ trợ pháp lý cho ai, đều có quyền ngoài những thẩm quyền được trao cho với tư cách người bảo vệ, thì còn có quyền triệu tập chuyên gia trên cơ sở hợp đồng để làm rõ những vấn đề thuộc chuyên môn liên quan đến hoạt động của luật sư trong vụ việc đó; có quyền gặp gỡ riêng thân chủ của mình trong điều kiện phải đảm bảo bí mật cuộc gặp gỡ; có quyền ghi nhận những thông tin được chứa đựng trong các hồ sơ vụ việc(kể cả dưới sự trợ giúp của các phương tiện công nghệ, kỹ thuật) và thực hiện các hoạt động khác mà pháp luật không cấm [7].
Vì vậy mà trong các công trình của mình chúng tôi nhiều lần đề nghị xóa bỏ sự mâu thuẫn đó trong Bộ luật TTHS và trao cho luật sư những quyền bình đẳng không phụ thuộc vào việc anh ta tham gia vào vụ việc cụ thể với tư cách nào.
Việc thực hiện các quyền này có ý nghĩa to lớn cho việc bảo vệ tất cả các lợi ích của người bị hại, vì lẽ đó khả năng thực hiện các quyền tố tụng khác của người bị hại phụ thuộc vào mức độ tuân thủ nghiêm chỉnh các quyền đó của người bị hại từ phía cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Bộ luật TTHS liên vang trao cho người bị hại quyền được giảng hòa với bị can, bị cáo. Tòa án và cả điều tra viên khi được thủ trưởng cơ quan điều tra cho phép cùng với sự chuẩn y của viện kiểm sát có quyền đình chỉ giải quyết vụ việc hình sự nếu có đơn đề nghị của bị hại hoặc người đại diện của người bị hại đối với các tội phạm thuộc loại ít nghiêm trọng, nghiêm trọng trong các trường hợp quy định tại điều 76 Bộ luật TTHS Liên bang Nga nếu như bị can, bị cáo đã hòa giải được với người bị hại.
Chính vì điều này mà ở Liên bang Nga trong những năm gần đây đã phát triển chế định Mediasia (tiếng Anh: Mediation)[4]. Mediasia được hiểu là phương pháp giải quyết tranh chấp có sự trung gian của một người và được sự đồng thuận của các bên để đạt được thỏa thuận trong giải quyết vụ việc. Sự khác biệt giữa thiết chế hòa giải và Mediasia là có thể thỏa thuận về những vấn đề mang tính chất mềm mỏng và linh hoạt hơn để đáp ứng tốt hơn lợi ích của người bị hại và một bên là bị can (hoặc bị cáo) nhằm đạt được kết quả một cách hiệu quả nhất trong giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực hình sự.
Ở thời điểm hiện nay việc áp dụng chế định này vào lĩnh vực TTHS đang gặp một số trở ngại bởi có những vấn đề vẫn chưa được giải quyết liên quan đến quy chế pháp lý của người bị hại trong TTHS và sự thiếu hụt cơ chế thực hiện hóa chế định hòa giải giữa các bên trong cả Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên cũng cần khẳng định rằng, vấn đề này đã và đang được thảo luận vô cùng sôi nỏi trong khoa học pháp lý Liên bang Nga.
Người bị hại và người đại diện của người bị hại có thể thực hiện các quyền khác trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, người bị hại cũng gánh những trách nhiệm xác định trong hoạt động tố tụng.
Trách nhiệm quan trọng nhất của người bị hại là cung cấp lời khai. Tuy nhiên, tất nhiên người bị hại không có quyền cung cấp lời khai gian dối hoặc từ chối cung cấp lời khai. Người bị hại cũng cần phải xuất hiện theo sự triệu tập của điều tra viên hoặc tòa án. Nếu không đến mà cũng không có lý do chính đáng, người bị hại có thể bị đưa đến bắt buộc. Người bị hại cũng không được phép để lộ thông tin điều tra nếu như anh ta đã được thông báo về việc không được để lộ theo quy định của điều 161 Bộ luật TTHS Liên bang. Nếu để lộ bí mật điều tra thì người bị hại sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 310 Bộ luật hình sự Liên bang.
Người bị hại có thể bị kiểm tra, kiểm chứng. Theo quy định tại Điều 179 Bộ luật TTHS, hoạt động này được tiến hành để kiểm tra trên cơ thể người bị hại những dấu hiệu, dấu viết hoặc đặc biệt của tội phạm, những chấn thương trên cơ thể, kiểm tra tình trạng sử dụng cồn và những đặc điểm khác ngoài mong muốn của người bị hại. Ngoài ra, người bị hại cũng có thể là đối tượng để thực hiện giám định. Trong số những trường hợp bắt buộc giám định có quy định trường hợp nếu xuất hiện những nghi ngờ về khả năng nhận thức của người bị hại đối với những vấn đề có ý nghĩa với việc giải quyết vụ việc hoặc kiểm tra trạng thái tâm sinh lý thì có thể chỉ định thực hiện giám định tư pháp. Giám định tư pháp sẽ là bắt buộc khi giám định về tuổi của người bị hại, nếu như giấy tờ chứng minh tuổi của người bị hại bị thiếu hoặc phát sinh những nghi vấn xung quanh tuổi của người bị hại.
Rõ ràng, người bị hại có rất nhiều quyền, lợi ích và nghĩa vụ và sự tham gia của luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại là cần thiết. Khác hẳn với các chủ thể khác lợi ích, quyền và những nghĩa vụ rất đan xen, đôi khi va chạp, xung đột lẫn nhau trong cùng một vụ việc. Vì vậy, để bảo vệ tốt quyền và lợi ích của người bị hại, ngoài việc hoàn thiện các quy định của pháp luật sao cho bình đẳng, công bằng và tiến bộ thì cần phải có những hướng nghiên cứu chuyên sâu về cơ sở chiến thuật của luật sư bị hại trong việc tham gia bảo vệ quyền và lợi ích của thân chủ. Với những hạn chế của pháp luật hiện hành và tình trạng kém phát triển của lĩnh vực khoa học nghiên cứu về các cơ sở khoa học của hoạt động bảo vệ của luật sư bị hại… có nguy cơ ảnh hương lớn đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại và ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguyên tắc tố tụng tranh tụng như là một trong những nguyên tắc tiến bộ hiện đại và phổ biến trên thế giới. Bên cạnh đó, với tính chất phức tạp vốn có về quyền, lợi ích và nghĩa vụ của bị hại, luật sư đại diện cho bị hại cần được trang bị hệ thống cơ sở khoa học đủ để có thể tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Khó có thể tạo ra sự bình đẳng trong tranh tụng khi địa vị, vai trò và cơ sở lý luận chiến thuật của luật sư bị hại lại đang vô cùng yếu thế so với các chủ thể khác của TTSH, đặc biệt là luật sư gỡ tội và điều tra viên, kiểm sát và công tố viên. Điều này tạo ra nhu cầu chính đáng cho việc hoàn thiện pháp luật và đặc biệt, phát triển hướng nghiên cứu mới về cơ sở khoa học về chiến thuật tham gia và bảo vệ của luật sư đại diện cho bị hại trong bối cảnh đẩy mạnh thực hiện nguyên tắc tố tụng tranh tụng ở Nga hiện nay.
3.     Một số gợi mở cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
Từ năm 2013 Việt Nam đã hiến định nguyên tắc “Đảm bảo tranh tụng trong xét xử” và đây được coi là một trong những quy định tiến bộ của pháp luật Việt Nam hiện đại nói chung và pháp luật tố tụng nói riêng. Nhưng, như đã đề cập ở trên, nội hàm của nguyên tắc này chỉ là một phần nội dung của nguyên tắc “Tố tụng tranh tụng” và điều này ảnh hưởng ít nhiều đến thực tiễn và sự phát triển của khoa học pháp lý, hoạt động đào tạo luật ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở nghiên cứu mô hình, nội dung đào tạo luật ở Nga, địa vị pháp lý, vai trò của luật sư đại diện bị hại trong TTHS, việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng và xu hướng phát triển của “Khoa học điều tra hình sự” ở Nga về khoa học chiến thuật tham gia của các chủ thể chuyên nghiệp đối kháng lại hoạt động điều tra, truy tố, trong đó có chiến thuật tham gia của luật sư đại diện bên bị hại và xem xét bối cảnh Việt nam, nhóm tác giả đưa ra một số gợi ý sau:
Thứ nhất, “Khoa học điều tra hình sự” nên được nghiên cứu, giảng dạy cho tất cả các cơ sở đào tạo luật thay bằng chỉ ở trong các trường đào tạo cán bộ điều tra như hiện nay ở nước ta. Môn học này không nên chỉ được coi là môn học nghiệp vụ mà là môn học nền tảng của khoa học pháp lý ứng dụng-kỹ thuật dựa trên kết quả nghiên cứu của Khoa học điều tra hình sự và chiến thuật tham gia của các chủ thể trong thực tiễn hoạt động tố tụng. Bởi lẽ, nếu chỉ có các điều tra viên được đào tạo về chiến thuật, kỹ thuật và cơ sở khoa học của chiến thuật, phương tiện điều tra… sẽ làm cho tính chất đối kháng bình đẳng giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động tố tụng như là một thuộc tính đặc trưng của tố tụng tranh tụng sẽ bị mờ nhạt đi. Sự bất bình đẳng trong tranh tụng là điều cấm kỵ, nhưng ở đây, các điều tra viên lại được trang bị tốt hơn so với các luật sư được đào tạo ở các trường khối dân sự, đặc biệt là sự bất bình đẳng về những trang bị về kiến thức, kỹ năng, chiến thuật và cơ sở khoa học của các chiến thuật điều tra. Thực tế cho thấy, trong bốn nhóm khoa học pháp lý thì nhóm khoa học pháp lý ứng dụng-kỹ thuật[5] kém được quan tâm, thậm chí không được đào tạo, trang bị ở các trường luật khối dân sự ở Việt Nam.
Thứ hai, tên khoa học và môn học nên đổi từ “Khoa học điều tra hình sự” thành “Khoa học điều tra hình sự và chiến thuật tham gia của các chủ thể chuyên nghiệp trong hoạt động tố tụng tranh tụng”. Bởi với tên gọi này sẽ tích hợp được các xu hướng phát triển của khoa học về điều tra và chiến lược tham gia của các chủ thể trong tố tụng tranh tụng hiện đại, trong đó có luật sư nói chung và luật sư đại diện của bị hại nói riêng trong tố tụng hình sự.
Thứ ba, dù coi xét xử là trung tâm của hoạt động tố tụng, nhưng thiết nghĩ để có được sự bình đẳng, công bằng và đạt tới chân lý khách quan thì đảm bảo tranh tụng trong xét xử là chưa đủ mà cần phải đảm bảo sự bình đẳng của các chủ thể trong tất cả các giai đoạn và công đoạn của quá trình tố tụng. Không chỉ bình đẳng về quyền, nghĩa vụ pháp lý mà còn phải bình đẳng về cơ hội tiếp cận tri thức, tiếp cận nền tảng khoa học, kỹ thuật trong xây dựng hệ thống tri thức, kỹ năng nghề nghiệp để đảm bảo không có bất kỳ sự bất bình đẳng nào khi tham gia vào quá trình tố tụng.
Thứ tư, hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là pháp luật về hình sự cần phải được hoàn thiện theo hướng thừa nhận nguyên tắc tố tụng tranh tụng thay vì chỉ tập trung đảm bảo tranh tụng trong xét xử. Để đảm bảo điều này, pháp luật cần ghi nhận sự bình đẳng của mọi chủ thể cả trước, trong và sau giai đoạn xét xử.
Thứ năm, tố tụng tranh tụng không đơn thuần là sự bình đẳng và đảm bảo sự bình đẳng giữa bên gỡ tội và luận tội và mọi quyết định được đưa ra dựa trên kết quả tranh luận trực tiếp mà còn là sự đảm bảo bình đẳng về mặt pháp lý của mọi chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng. Luật sư đại diện cho bị hại trong vụ án hình sự là một ví dụ bởi mọi chính sách, đường lối quan điểm của luật sư bị hại trong quá trình tố tụng đều dựa vào lợi ích của thân chủ và để đạt được lợi ích đó thì quan điểm, vị trí của luật sư có thể thay đổi và không cố định. Luật sư bị hại có thể là bên luận tội và cũng có thể là bên gỡ tội trong một vụ việc cụ thể.
Thiết nghĩ, tố tụng tranh tụng là nguyên tắc cơ bản, tiến bộ, hiện đại và phổ biến trên thế giới. Việt Nam phần nào đã thừa nhận nguyên tắc ấy. Tuy nhiên, để đảm bảo nguyên tắc này được áp dụng triệt để góp phần bảo đảm công lý, công bằng xã hội và phù hợp với các xu hướng tiến bộ trên thế giới, cần phải có cách tiếp cận toàn diện trong hoàn thiện pháp luật, đào tạo luật và thực hiện pháp luật. Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, chúng tôi tiếp cận hướng hoàn thiện thông qua phân tích về vị trí, vai trò đặc biệt của luật sư đại diện bị hại và trên cơ sở đó lập luận về sự cần thiết phải mở rộng, phát triển hướng nghiên cứu về chiến thuật tham gia của các chủ thể chuyên nghiệp đối kháng lại hoạt động điều tra và đặc biệt nhấn mạnh và lập luận về sự cần thiết của việc nghiên cứu chiến thuật tham gia, bảo vệ của luật sư bị hại trong tố tụng hình sự hiện đại. Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này chúng tôi chỉ có thể nêu lên một vài vấn đề nhỏ và hi vọng đặt nền móng cho những khảo cứu tiếp theo về lĩnh vực này ở cả Nga và Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
[1]Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam.
[2]Баев О.Я. Основы криминалистики: курс лекций. М, 2001. С. 181-182.
[3]Баев М.О., Баев О.Я. Тактика уголовного преследования и профессиональной защиты от него. Прокурорская тактика. Адвокатская тактика: Научно-практическое пособие. М., 2005.
[4]Горский В.В. Тактические основы деятельности адвоката-представителя потерпевшего в уголовном судопроизводстве России : диссертация . канд. юрид. наук : 12.00.09 / В.В. Горский ; Воронеж. гос. ун-т; науч. рук. О.Я. Баев .— Защищена 24.12.2009 .— Воронеж, 2009
[5] Xem Khoản 3 Điều 45 Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2001 (sửa đổi, bổ sung đến ngày 1/6/2016)
[6] Xem Điều 86 Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2001 (sửa đổi, bổ sung đến ngày 1/6/2016)
[7] Luật hoạt động của luật sư và hành nghề luật sư Liên bang Nga ban hành năm 2002 (sửa đổi, bổ sung lần gần nhất vào ngày 2/6/2016)







* email: vsu-vadim-law@mail.ru/ Tel : +7 (473) 220-85-14
** email: mvtanson@gmail.com/ Tel : 0947.055.811
[1] Nguyên tắc này được ghi nhận trong Điều 123 Hiến pháp năm 1993 của Liên bang Nga (Tiếng Nga: принцип состязательности сторон)
[2] Về tên gọi này nhóm tác giả để trong dấu ngoặc kép bởi nội hàm của thuật ngữ này không còn đơn thuần là lĩnh vực của hình sự và điều tra hình sự.
[3] GS.TSKH Baev O. Ya là một trong những chuyên gia xuất sắc trong lĩnh vực nghiên cứu chiến lược, chiến thuật của các chủ thể tham gia hoạt động TTHS Liên bang Nga. Ông được trao tặng danh hiệu Viện sĩ, Nhà khoa học công huân Nga. Ông từng là điều tra viên cao cấp nhưng xin chuyển sang giảng dạy nghiên cứu. Lúc đầu lĩnh vực nghiên cứu của ông chủ yếu thiên về kỹ thuật, chiến thuật của điều tra viên. Ông là giáo viên hướng dẫn và người có nhiều ảnh hưởng tới TS. Gorsky V.V, TS. Gorsky M.V và TS. Mai Văn Thắng.
[4] Nguyên văn tiếng Nga là “Медиация”.
[5] Thông thường, khoa học pháp lý được chia làm bốn nhóm chính: 1) Khoa học pháp lý cơ bản; 2) Khoa học pháp lý chuyên ngành; 3) Khoa học pháp lý nghiên cứu pháp luật quốc tế; 4) Khoa học pháp lý ứng dụng-kỹ thuật. Trong số đó, nhóm thứ Tư bao gồm: Khoa học điều tra hình sự, Tâm thần học tư pháp; Pháp y….ít được quan tâm, thậm chí không được giảng dạy ở các trường luật khối dân sự.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.