Thứ Ba, 5 tháng 7, 2016

Điều kiện địa lý nước Nga và tư duy dân tộc Nga



ảnh: Internet
 Tác giả: Bùi Mỹ Hạnh
ĐHQG HCM
Nguồn: Tập san “Khoa học xã hội & nhân văn”, 
số 28, tháng 9-2004, tr. 52-57

 Một bài viết hay về nước Nga của TS. Bùi Mỹ Hạnh - Khoa ngữ văn Nga, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, ĐHQG HCM. Có rất nhiều đánh giá phù hợp với quan điểm của tôi nên tôi đưa lên đây để các bạn tham khảo và để hiểu hơn về nước Nga.

Tư duy dân tộc là một bộ phận cấu thành của văn hoá dân tộc. Nghiên cứu tư duy dân tộc rất cần thiết cho việc hiểu mối tương quan thiên nhiên, lịch sử, văn hoá và xã hội trên một lãnh thổ nhất định. Và đối tượng quan tâm trước hết đó là con người.

Nghiên cứu tư duy dân tộc Nga giúp cho người học tìm ra những cách tiếp cận đúng để hiểu nhiều vấn đề trong lĩnh vực kinh tế – xã hội và chính trị, dự đoán được những nét chính yếu của tương lai nước Nga. Nhà văn Nga nổi tiếng M.A. Sholokhov từng nói: “Khắc nghiệt, hoang dã – biển và núi đá. Không có gì nhân tạo cả, và con người phải đối mặt với thiên nhiên. Thiên nhiên này đã đặt dấu ấn sức khỏe và tính tự kiềm chế sáng suốt lên người lao động – ngư dân và nông dân”[ Shirikin P.S. 2002]. Nghiên cứu chi tiết những quy luật thiên nhiên, ta có thể hiểu được cả tính quy luật thái độ ứng xử và tính cách của con người.

Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2016

Tản mạn về khái niệm chức năng của nhà nước

ảnh: internet
Mai Văn Thắng
Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội
Cho đến nay, trong khoa học pháp lý cả trên thế giới và ở Việt Nam vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về chức năng của nhà nước dù thuật ngữ này đã được sử dụng phổ biến. Nhận thức về chức năng của nhà nước bị chi phối bởi nhiều yếu tố từ bản chất, quan niệm về nhà nước cho tới bối cảnh kinh tế, chính trị, xu thế của thời đại và trình độ phát triển của nền khoa học.
Ở Việt Nam, dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng về cơ bản các nhà khoa học cho rằng, chức năng của nhà nước: 1) Là phương diện hoạt động chủ yếu, cơ bản của nhà nước thể hiện trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội (để thực hiện nhiệm vụ của nhà nước); 2) Phù hợp với bản chất của nhà nước; 3) Thể hiện vai trò của nhà nước đối với xã hội (qua đó biểu thị giá trị của sự tồn tại của NN).[1] 

Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2016

Giới thiệu sách "Tư duy pháp lý: Lý luận và thực tiễn"

Sách chuyên khảo
"Tư duy pháp lý: Lý luận và thực tiễn"
NXB. ĐHQGHN, 2016
Chủ biên: Nguyễn Hoàng Anh,
Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tuấn

Cuối năm 2015, hai bộ môn thuộc Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội là Bộ môn Lý luận - Lịch sử Nhà nước và pháp luật và Bộ môn Luật Hiến pháp-Hành chính tổ chức Hội thảo về Tư duy pháp lý. Trên Hội thảo, được sự cổ vũ và đánh giá cao của nhiều nhà khoa học đến từ các cơ sở đào tạo luật khác nhau trên địa bàn Hà Nội, Lãnh đạo hai bộ môn cùng với sự hỗ trợ của Nhà xuất bản ĐHQGHN đã quyết định nâng cấp và xuất bản Sách chuyên khảo “Tư duy pháp lý: Lý luận và thực tiễn”.
Cuốn sách là tập hợp những nghiên cứu chuyên sâu về tư duy pháp lý của tập thể các nhà khoa học của hai bộ môn và của một số học giả uy tín khác trong và ngoài Khoa Luật.
Chủ Blog này (Mai Văn Thắng) cũng may mắn có tham gia một chút vào cuốn sách với tư cách là đồng tác giả!
Xin trân trọng giới thiệu và hi vọng cuốn sách sẽ giúp ích cho quý vị!

Liên hệ mua, mượn sách: Thư viện Khoa Luật, Nhà G3, số 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội.

Giới thiệu sách “Giới hạn chính đáng đối với các quyền con người, quyền công dân trong pháp luật quốc tế và Việt Nam”

Sách chuyên khảo:
“Giới hạn chính đáng đối với các quyền con người, 
quyền công dân trong pháp luật quốc tế và Việt Nam”
NXB. Hồng Đức, 2015
Chủ biên: TS. Nguyễn Minh Tuấn

Trong năm 2015, dưới sự hỗ trợ của Ban Quản lý Dự án Đan Mạch và Lãnh đạo Khoa Luật, ĐHQGHN, TS. Nguyễn Minh Tuấn đã bắt tay nghiên cứu một lĩnh vực còn khá mới đối với Việt Nam “Giới hạn chính đáng đối với các quyền con người, quyền công dân”. Dù vấn đề giới hạn quyền đã được nghiên cứu khá sâu và bài bản ở nhiều quốc gia tiến bộ trên thế giới, nhưng ở Việt Nam, cùng với sự ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp 2013 về việc giới hạn quyền con người, quyền công dân, vấn đề này còn khá mới mẻ trong khoa học pháp lý nước nhà.
Trong cuốn sách có sự tham gia của những nhà khoa học có uy tín như PGS.TS. Vũ Công Giao, Trưởng Bộ môn Luật Hiến pháp- Hành chính của Khoa Luật, ĐHQGHN và rất nhiều nhà Khoa học trẻ của Khoa Luật. Chủ của Blog này (Mai Văn Thắng) cũng được chủ biên cuốn chuyên khảo này mời viết một phần nhỏ trong cuốn sách.
Đây là cuốn sách chuyên khảo đầu tiên ở Việt Nam về lĩnh vực này, tuy nhiên, thiết nghĩ cũng là công trình khoa học công phu, nghiêm túc của Chủ biên và tập thể tác giả. Trân trọng giới thiệu và hi vọng cuốn sách sẽ đem lại lợi ích cho quý vị!

Liên hệ mua, mượn sách: Thư viện Khoa Luật, ĐHQGHN (G3, số 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội).
Trân trọng giới thiệu!

Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2016

Tính biện chứng của tư duy pháp lý

ảnh: Internet
TS. Mai Văn Thắng
Khoa Luật-ĐHQGHN
Nguồn: Sách chuyên khảo
"Tư duy pháp lý: Lý luận và thực tiễn"
NXB. ĐHQGHN, 2016
Chủ biên: Nguyễn Hoàng Anh,
Vũ Công Giao, Nguyễn Minh Tuấn
Thông thường, nhiều người hay bàn về những quy luật của tư duy. Điều này rất đúng, nhưng đó là tư duy lý tưởng, tư duy logic hay nói một cách khác - những đòi hỏi của tư duy logic, khoa họcỞ một góc nhìn bình dân hơn, tôi thấy tư duy đơn giản là một sản phẩm sinh ra t cuộc sống và luôn vận động biến đổi cùng cuộc sống. Đến lượt mình tư duy cũng góp phần không nhỏ làm thay đổi cuộc sống, thay đổi chính mình. Thiết nghĩ, ở một góc nhìn "bình dân" thì chúng ta sẽ có một cái nhìn "khoan dung" hơn với lề lối tư duy của một xã hội đương thời và cũng từ đó sẽ nỗ lực hơn để thay đổi (hoàn thiện hoặc đổi mới) thực tại xã hội để tư duy, nhất là tư duy pháp lý, ngày một tiệm cận hơn tới các chuẩn mực của tư duy khoa học, logic và hiện đại.
Mở đầu
Tư duy pháp lý là một loại hình của tư duy - tư duy chuyên nghiệp của luật gia, vì vậy nó cũng cần phải tuân thủ đầy đủ những quy luật cơ bản của tư duy logic hình thức, như quy luật đồng nhất, quy luật không mâu thuẫn, quy luật triệt tam và quy luật lý do đầy đủ.[1] Những quy luật này cũng chính là những yêu cầu cần thiết của luật gia trong hoạt động nghề nghiệp.
Tư duy là một hoạt động nhận thức của con người và tư duy pháp lý cũng vậy. Vì thế tư duy pháp lý không tách rời thực tại khách quan. Những quy luật của tư duy logic hình thức đòi hỏi trạng thái tĩnh, lý tưởng, trong khi đó, trên thực tế, tư duy pháp lý luôn gắn liền với hoạt động của mỗi chủ thể, đặt trong bối cảnh, hoàn cảnh, thời điểm xác định, vì vậy nó còn chịu tác động và nằm trong mối liên hệ qua lại với thực tại xã hội. Tư duy pháp lý là hoạt động nhận thức (ý thức) của cá nhân, chịu sự quy định của thực tại xã hội, của chủ thể nên luôn vận động, biến đổi và phát triển. Nói một cách khác, cũng như tư duy, tư duy pháp lý không chỉ là những quy luật, những điều kiện, mà còn là một hiện tượng có mối quan hệ chặt chẽ với thực tại xã hội, luôn vận động, biến đổi và phát triển.

Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2016

Bàn về mối tương quan giữa quy phạm pháp luật và các điều luật trong văn bản pháp luật

ảnh: Internet
Mai Văn Thắng
Khoa Luật - ĐHQGHN

Gần đây, có một số bạn sinh viên trong thời gian ôn thi môn Lý luận nhà nước và pháp luật có biên thư hỏi tôi về mối tương quan giữa quy phạm pháp luật và điều luật trong văn bản quy phạm pháp luật. Để tiện cho các bạn sinh viên tôi xin đưa quan điểm của mình lên đây cho các bạn đọc, nếu ai có quan điểm khác hoặc thắc mắc xin gửi thư góp ý cho tôi hoặc phản biện để tôi hoàn thiện hơn. Trân trọng cảm ơn! 

Quy phạm pháp luật và điều luật là hai hiện tượng pháp lý độc lập. Nếu quy phạm pháp luật là một bộ phận cấu thành của pháp luật trên phương diện nội dung, thì điều luật lại là sự biểu hiện của pháp luật về mặt hình thức. So sánh hai hiện tượng khác nhau thông thường không có nhiều ý nghĩa, tuy vậy, việc chỉ ra mối liên hệ giữa quy phạm pháp luật và các điều luật lại có ý nghĩa trong cả nhận thức, lý luận và thực tiễn.
Trên khía cạnh nhận thức và lý luận, tìm ra mối liên hệ giữa quy phạm pháp luật và điều luật giúp người học phân biệt rõ hơn về quy phạm pháp luật cũng như về các điều luật, phần nào giải quyết những hoài nghi về cấu trúc của quy phạm pháp luật. Ở khía cạnh thực tiễn, việc chỉ ra mối liên hệ này không chỉ giúp cho quá trình tư duy phân tích quy phạm và áp dụng pháp luật trong giải quyết một vụ việc, tình huống pháp lý cụ thể mà còn giúp hoàn thiện và nâng tầm kỹ thuật lập pháp.