Thứ Tư, 26 tháng 8, 2015

Sự cần thiết đổi mới chương trình, giáo trình môn Lý luận nhà nước và pháp luật theo hướng hiện đại phù hợp bối cảnh mới ở nước ta hiện nay


Mai Văn Thắng
Khoa Luật, ĐHQGHN

Lý luận về nhà nước và pháp luật là khoa học pháp lý cơ sở, nền tảng và đồng thời là môn học nền tảng, cánh cửa để bước vào khoa học pháp lý, giúp cho việc tiếp nhận các khoa học pháp lý chuyên ngành và khoa học pháp lý ứng dụng trở nên có hệ thống, logic và chuẩn xác hơn. Cũng chính vì tầm quan trọng ấy mà việc cung cấp, phổ biến tri thức thuộc lĩnh vực này cần đảm bảo sự chuẩn xác, phù hợp với định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền và chiến lược cải cách giáo dục, đào tạo ở Việt Nam hiện nay.
Để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền, thiết nghĩ, xã hội cần phải được tư duy theo hướng pháp quyền và nhân quyền. Muốn có được tư duy theo hướng pháp quyền và nhân quyền, trước hết cần phải truyền bá tri thức và tiếp cận theo pháp quyền, nhân quyền. Với tư cách như là một khoa học pháp lý, một môn học cơ sở trong quá trình đào tạo luật học, Lý luận nhà nước và pháp luật đóng một vai trò quan trọng. Bởi, nếu những nhà luật học tương lai, những người đã chọn luật như nghề nghiệp tương lai của mình được trang bị ngay từ những giây phút đầu một tri thức chuẩn, một tư duy pháp quyền, nhân quyền trên nền tảng của Lý luận nhà nước và pháp luật, thì sứ mệnh đó có cơ sở để thành công!
Tuy nhiên, nghiên cứu về chương trình giảng dạy và hệ thống giáo trình của môn học này ở nước ta, tôi cho rằng, với những gì hiện có Lý luận nhà nước và pháp luật chưa hoàn toàn đủ sức gánh vác việc thực thi sứ mệnh cao cả “đi trước mở đường” đó.

Trên cơ sở những suy nghĩ trên, tôi xin tập trung vào phân tích hai phần chủ yếu:
Phần 1, Khái quát về sự "chưa tương thích" của của chương trình, giáo trình cho môn học LLNNPL trong hướng tiếp cận hiện đại, nhân quyền, pháp quyền.
Phần 2: Một số khuyến nghị hoàn thiện học liệu, khung chương trình để việc tiếp cận môn học này thực sự theo hướng hiện đại và nhân quyền.
Phần 1:
Vấn đề 1: Về chương trình, đề cương giảng dạy môn học
Chương trình và đề cương môn học đã có nhiều điều chỉnh, nhưng thời lượng của môn học chưa cho phép người học có thể trao đổi, thảo luận chuyên sâu về các vấn đề liên quan đến lý luận nhà nước và pháp luật hiện đại, nhất là những vấn đề lý luận nhà nước và pháp luật và nhân quyền. Hiện (theo Chương trình sửa đổi năm 2014 của Khoa Luật ĐHQGHN), môn học được xây dựng với 60 giờ tín chỉ, trong đó có 12 giờ tự học, 48 giờ lý thuyết và không có một giờ thảo luận nào. Theo tác giả, chương trình này chưa thật sự phù hợp với sự nghiệp cải cách phương pháp dạy và học, với định hướng nhân quyền và thậm chí còn có chỗ chưa chuẩn xác trong tiếp cận theo hệ thống tín chỉ. Theo chương trình này, sinh viên hầu như không có cơ hội trao đổi, tranh luận chuyên sâu về các vấn đề lý luận hiện đại hoặc còn tranh luận về nhà nước và pháp luật, những vấn đề nhân quyền trong lý luận hiện đại về nhà nước và pháp luật. Ví dụ như, để tiếp cận chuyên sâu hơn về các lĩnh vực nhân quyền trong lý luận NNPPL hoặc những vấn đề mang tính hiện đại về nhà nước pháp luật, cần phải có giờ trao đổi, thảo luận về mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật trong xã hội hiện đại; quyền lực nhà nước là gì; mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước và nhà nước, tính hợp pháp và tính chính đáng của quyền lực nhà nước; pháp quyền, nhà nước pháp quyền, pháp trị, pháp chế; bàn luận về những nguyên tắc hiến định, những quy định mới trong hiến pháp về nhân quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân trong lịch sử và hiện đại; con người, cá nhân, công dân và quy chế pháp lý của họ; và nhiều vấn đề khác về trách nhiệm pháp lý như trách nhiệm pháp lý gắn với vi phạm pháp luật, trách nhiệm pháp lý không có vi phạm pháp luật (trách nhiệm nghiêm ngặt, trách nhiệm pháp lý tích cực…), các loại hình phạt, trách nhiệm pháp lý trong pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế;;... tất cả điều đó đều liên quan đến Lý luận về NN&PL và nhân quyền (Thảo luận những điều này chính là lồng ghép tri thức nhân quyền và cũng là cách tiếp cận giáo dục hiện đại kh người học có quyền thẳng thắn, trao đổi).
Tiếc rằng, với chương trình hiện tại các giảng viên khó lòng khó thể truyền tải hết trong 48 giờ tín chỉ những nội dung trên, mà nếu có truyền tải hết cũng khó được tiếp nhận với một sinh viên mới bước ra từ trường phổ thông. Chỉ còn có cách là trao thêm nhiều cơ hội cho thảo luận. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ, với chương trình hiện tại nếu đi sâu vào thảo luận thì sẽ giảm thời lượng cho giờ lý thuyết và như vậy sẽ gặp vấn đề về giảng dạy theo tín chỉ.
Ở Liên bang Nga, môn học được tiếp cận dạy tín chỉ như sau: Nếu môn học có số tín chỉ là 60 thì sẽ có khoảng 40 tiết lý thuyết và sẽ có khoảng 20 tiết thảo luận, giải quyết bài tập, tình huống. 40 giờ lý thuyết sẽ được dạy ở một giảng đường rất đông khoảng 150-200 sinh viên do các chuyên gia uy tín về môn học giảng dạy (sinh viên và giảng viên trẻ đều được vào nghe). Ở đây các giáo sư giảng giải lý thuyết, còn sinh viên nghe và có vấn đề gì đó ghi lại và sẽ có tiết thảo luận để trao đổi. 20 tiết thảo luận sẽ được tiến hành ở các lớp nhỏ theo nguyên tắc: mỗi lớp không quá 20 người. Như vậy nếu lớp lý thuyết là 200 thì sẽ có 10 lớp thảo luận. Ở những lớp thảo luận giảng viên phụ trách sẽ đưa ra những câu hỏi chuẩn bị trước, sinh viên bị yêu cầu phải tự tìm tài liệu và trả lời mấy câu hỏi đó trên lớp để kiểm tra (mất khoảng 30 phút), sau đó trao đổi, thảo luận. Thông thường ở đây sinh viên sẽ trao đổi, thảo luận, tranh luận về các vấn đề thắc mắc trên lớp lý thuyết, đọc trong tài liệu dưới sự điều khiển bởi một giảng viên (thường không phải là giáo sư đầu ngành). Những vấn đề hiện đại, nhân quyền như đề cập ở trên sẽ được tranh luận sâu hơn ở 20 tiết thảo luận này. Bằng cách này, sinh viên được tôi luyện kỹ năng tranh biện, hỏi đáp và tự tìm kiến thức để tranh biện nên nắm những kiến thức hiện đại sâu hơn, hiểu tốt hơn cả những vấn đề giảng dạy trên giờ lý thuyết. Nếu không được giải đáp và không thỏa mãn, sinh viên có thể gặp người giảng dạy lý thuyết để trao đổi vì mỗi giảng viên bị quy định 1 tuần có 2 tiếng “tư vấn bắt buộc” trong cơ sở đào tạo (họ ngồi ở Bộ môn và ai cũng có quyền đến hỏi trong thời gian này). Ở Việt Nam chúng ta có chương trình chưa tốt, các giảng viên thường tranh thủ thời gian lý thuyết để tiến hành 1-2 giờ thảo luận theo kiểu “méo mó có hơn không” thậm chí “cho mình đỡ mệt”.
-                      Đề cương môn học đã tiếp cận theo hướng hiện đại, nhân quyền như vấn đề nguồn gốc, quan niệm về nhà nước pháp luật, nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, nhưng trong đề cương vẫn chủ yếu mang tính lồng ghép tùy nghi. Có nghĩa giảng viên có thể nói thêm về nhân quyền trong mỗi bài giảng bắt buộc tùy theo khả năng và hứng thú của mình chứ khó kiếm tra, đánh giá. Đề cương hiện chia làm ba phần: phấn 1 khái luận về môn học, khoa học LLNNPL, phần 2: Lý luận về nhà nước và phần 3: lý luận về pháp luật. Đề cương theo thiết kế này khá dễ hiểu, rõ ràng, nhưng để phục vụ tiếp cận theo hướng nhân quyền thì có vẻ chưa phù hợp. Có những vấn đề chung chưa được giải quyết và sẽ hợp lý hơn nếu đưa vào 1 phần riêng: như Mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật; Quyền, tự do của con người, công dân  (những vấn đề cần bàn về lý luận cơ bản về quyền con người quyền công dân, phân loại các quyền cơ bản, quyền và nghĩa vụ của công dân, những cơ chế đảm bảo thực hiện và bảo vệ quyền con người quyền công dân, quy chế pháp lý của cá nhân), tài phần này có thể đưa tách vấn đề nhà nước pháp quyền, pháp quyền, pháp trị ra để bàn luận. Tôi cho rằng, Lý luận nhà nước và pháp luật là khoa học độc lập chứ không phải phép cộng giản đơn giữa hai lĩnh vực khoa học: Lý luận về nhà nước và Lý luận về pháp luật, nên cần phải có những vấn đề chung, giải quyết mối liên hệ và những vấn đề liên quan đến nhân quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân trong mối liên hệ với nhà nước và pháp luật.
Giải pháp các giảng viên thường áp dụng: Không cho sinh viên nghỉ các buổi tự học mà thay vào đó sẽ cho lớp thảo luận về những vấn đề hiện đại về nhà nước và pháp luật, trao đổi những vấn đề thời sự về quyền con người, quyền công dân liên quan đến các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước; thảo luận về pháp quyền, pháp chế, pháp trị, nhà nước pháp quyền, phân biệt các quyền con người, quyền công dân và các nhóm quyền… Nhưng tôi xin lưu ý là: điều này là không đúng với Chương trình vì chương trình không có giờ thảo luận và giảng viên có thể nghỉ 1 số tiết. Hơn nữa, thảo luận với 120 sinh viên là không hiệu quả bằng cách chia học thảo luận theo lớp nhỏ (20-30 sinh viên).
Cũng nên lưu ý là việc cho tự học có kiểm tra phải là bắt buộc vì đây là thời gian đào tạo chứ không phải là thời gian nghỉ. Sinh viên được giao bài tự học, tự tìm kiếm tài liệu dưới sự hướng dẫn của giảng viên và họ sẽ bị kiểm tra. Triết lý đào tạo hiện tại sẽ bị phá vỡ (hoặc không đạt được như mong muốn) nếu không hiểu và không áp dụng tốt “giờ tự học này”.
Ngoài ra, có một số giảng viên cũng lập ra trang blog, địa chỉ trực tuyến để đưa những tài liệu hay những quan điểm trên đó để sinh viên đọc đưa ra câu hỏi, thảo luận và cung cấp thêm tài liệu qua email cho những nhóm thuyết trình, hoặc qua mail của những tài liệu liên quan đến môn học, liên quan đến phần thảo luận chuyên sâu.  Đây là cách hay mà nhiều giảng viên ở nước ngoài hay sử dụng để hỗ trợ đào tạo. Một số các giảng viên cũng đã dùng các tiết để tư vấn ngoài giờ (kể cả qua email và trên Bộ môn…).
Bên cạnh đó, tôi cũng cho rằng, nên bỏ tên gọi chương IX “Hệ thống chính trị Việt Nam” mà thay vào đó là tên “Nhà nước trong hệ thống chính trị” (sau đó thêm mục về Việt Nam) hoặc “Nhà nước và pháp luật trong hệ thống chính trị” bởi ta hiểu hệ thống chính trị đâu chỉ mỗi các tổ chức thành viên mà còn chức năng của các tổ chức đó và hệ thống các quy phạm điều chỉnh nữa.
Vấn đề 2: Về giáo trình LLNNPL trong mối tương quan với giảng dạy hiện đại theo định hướng nhân quyền, pháp quyền.
Tại sao lại phải đổi mới giáo trình LLNNPL theo hướng hiện đại, nhân quyền  và pháp quyền để hiệu quả hơn việc giảng dạy theo định hướng nhân quyền của môn học này thì tôi đã trả lời ở trên.
Hiện tại, hệ thống giáo trình LLNNPL của chúng ta cũng khá đồ sộ: của GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, của ĐHL Hà Nội (chủ biên GS. Lê Minh Tâm), GT của PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt, PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan, PGS.TS. NGuyễn Văn Động và còn của nhiều trung tâm, nhà nghiên cứu khác.
Phải thừa nhận đây là các giáo trình nói trên là những công trình hết sức có giá trị, là kết quả nghiên cứu của các chuyên gia có uy tín trong nước. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu cung cấp lượng kiến thức cần thiết về lĩnh vực nhân quyền, đặc biệt là phục vụ yêu cầu và sứ mệnh chuyển trọng tâm sang hướng tiếp cận theo góc độ nhân quyền thì có thể nói cần phải có những điều chỉnh thì mới đảm bảo hiệu quả và phù hợp với hơi thở thời đại.
Có thể nói, hệ thống giáo trình của ta đã được viết cách đây một số năm nên nội dung không theo kịp những đổi mới và tư duy tổ chức quyền lực của như hướng tiếp cận nhân quyền của nhà nước và nhu cầu xã hội và đặc biệt, không theo kịp nhu cầu đổi mới của chương trình đào tạo tại Khoa Luật. Ví dụ như: trong trương trình đào tạo tại Chương V đã yêu cầu giảng dạy và cung cấp kiến thức về: Các quan niệm về nhà nước (rất tiến bộ, nhân quyền), nhưng trong các giáo trình hầu như chỉ đề cập đến các quan niệm liên quan nguồn gốc (sự xuất hiện) của nhà nước.
Ngoài ra, như đã nói, giáo trình của ta chưa tiếp cận theo hướng nhân quyền vì vẫn dành nhiều dung lượng cho những vấn đề nặng về “cách tiếp cận cũ”. Chẳng hạn, thay vì dành cần phải nhiều dung lượng hơn cho những vấn đề như: các quan niệm, hướng tiếp cận về bản chất nhà nước, pháp luật trên thế giới, lý luận về quyền con người, quyền công dân trong mối tương quan với nhà nước và pháp luật trong thế giới hiện đại, các nguyên tắc phân quyền, giá trị xã hội của pháp luật, vai trò của pháp luật đối với công bằng, bình đẳng, bản chất hiện đại của quyền lực nhà nước, mối quan hệ giữa chủ quyền nhân dân với quyền lực nhà nước… thì một số giáo trình còn dành một số lượng lên đến hàng trăm hoặc gần trăm trang cho kiểu nhà nước và sau đó là kiểu pháp luật. Khi chúng ta bàn quá nhiều về từng hình thức, bản chất, cơ sở kinh tế, xã hội, tính chất, hình thức của từng kiểu nhà nước và pháp luật có nghĩa là giáo trình còn tiếp cận theo hướng tuyên truyền, vì mục đích chính trị, chứ không phải khoa học (nêu các kiểu cũ xấu và cuối cùng là kiểu XHCN ưu việt nhất). Cách tiếp cận này không chỉ nặng về tư tưởng, thiếu tính hiện đại, không đáp ứng nhu cầu tiếp cận theo hướng nhân quyền mà có thể còn sai lại đối tượng – vì những vấn đề đó là vấn đề của lịch sử nhà nước và pháp luật. Trong LLNNPL cũng đề cập đến phân chia theo kiểu nhà nước hay kiểu pháp luật nhưng chỉ là nêu quan điểm và cách thức phân chia, khái quát nội dung của các kiểu chứ không đi sâu vào phân tích từng kiểu nhà nước và kiểu pháp luật một. Cùng lắm nên chỉ cần dung lượng 3-5 trang cho vấn đề kiểu nhà nước và cũng từng ấy cho vấn đề kiểu pháp luật. Cũng liên quan đến vấn đề này, trong đề cương có đề cập đến phân kiểu nhà nước theo thuyết văn minh, tuy nhiên trong các giáo trình ta không tìm thấy nội dung này.
Các giáo trình hiện tại cũng còn nhiều điểm chưa nhất quán. Trong một giáo trình trang trên thì nói “Chế độ chính trị dân chủ thì chia thành: chế dộ dân chủ chủ nô, chế độ dân chủ phong kiến, chế độ dân chủ tư sản” nhưng trong khi nói về kiểu nhà nước phong kiến thì lại viết “nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước triệt tiêu mọi quyền dân chủ của người dân” hay “NN XHCN Việt Nam là nhà nước dân chủ, mọi quyền lực nhà nước là của nhân dân”… nhưng lại thể hiện ý chí của giai cấp công nhân nhưng khi viết về mục đích của Cải cách BMNN Việt Nam thì “dân chủ hóa”. Hoặc một trong các đặc điểm của NN CHXHCN Việt Nam là “có hệ thống pháp luật hoàn thiện”, thì trong phần phương hướng hoàn thiện Bộ máy NN là “hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng pháp quyền”…. (Xin không được trích dẫn ở đây vì những lý do tế nhị)
Hơn nữa, rất nhiều những luận điểm về pháp quyền, nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền xã hội CNVN được các giáo sư, các giảng viên dạy cập nhật hơn so với giáo trình – điều này là bình thường, nhưng sinh viên lại học giáo trình.
Phương án mà nhiều giảng viên đã sử dụng nhằm hiện đại hóa, tiếp cận lồng ghép nhân quyền trong môn học này:
-          Dạy thêm chương: các quan niệm truyền thống và hiện đại về nhà nước; những tranh luận về các dấu hiệu của nhà nước; mối liên hệ giữa các quan niệm về nhà nước đó với chức năng của nhà nước;
-          Dạy về nhà nước pháp quyền, xây dựng NNPQ Việt Nam lên 6 tiết lý thuyết và thêm hai tiết thảo luận. Phân biệt pháp quyền, nhà nước pháp quyền, pháp trị, pháp chế và so sánh các tiêu chí nhận diện nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta khác với thông lệ ở chỗ nào, cho sinh viên đánh giá, bình luận, tranh luận và phản biện;
-          Dạy thêm quan niệm thuyết văn minh về kiểu nhà nước và hạn chế tối đa dung lượng về các kiểu nhà nước và pháp luật theo quan niệm của thuyết hình thái kinh tế xã hội (chỉ mang tính giới thiệu);
-          Nói thêm về các quan niệm khác nhau về pháp luật và mối liên hệ giữa các quan niệm về pháp luật với quan niệm về nguồn pháp luật và các chức năng của pháp luật theo hướng hiện đại, pháp luật là công cụ để bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân tổ chức, là công cụ duy trì hòa bình, trật tự xã hội.
-          Truyền thụ thêm kiến thức về Quyền con người, quyền công dân và cho người học tranh luận về sự tương đồng và khác biệt giữa hai thuật ngữ này. Sự khác biệt giữa Hiến pháp 1992 với Hiến pháp 2013 về chế định này và ý nghĩa của nó;
-          Bàn thêm về “Quyền lực nhà nước”, như: khái niệm, phương thức thực hiện quyền lực nhà nước, tính hợp pháp, tính chính đáng của quyền lực nhà nước. Nhà nước và quyền lực nhà nước, phân chia quyền lực nhà nước vì mục tiêu kiểm soát, giới hạn quyền lực nhà nước. Nhà nước và chính quyền;
-          Bàn thêm về nguyên tắc ‘Công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm’và “cán bộ, công chức, viên chức” được những gì pháp luật cho phép”. Sự biến chuyển của quan niệm này trên thực tế từ các đạo luật (Luật doanh nghiệp…), về sự khác biệt giữa “nhà nước không thừa nhận hôn nhân đồng giới” với “nhà nước không cấm kết hôn đồng giới” liên quan đến nguyên tắc trên.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, những phần giảng dạy thêm đó lại chưa được cập nhật đầy đủ trong giáo trình cho có sự thống nhất, chuẩn hóa về kiến thức và đặc biệt là không đủ thời lượng cho môn học, giảng viên dạy mỗi lớp theo các cách khác nhau, thậm chí bỏ qua (vì ko thi) và cuối cùng là sinh viên vẫn đọc các giáo trình cũ khi đi thi nên hiệu quả “lồng ghép nhân quyền” trong giảng dạy môn học này là chưa cao.

Phần 2:
Một số kiến nghị, gợi ý
1.      Cần đổi mới chương trình, đề cương môn học để cho tri thức và định hướng nhân quyền, pháp quyền được giảng dạy và học tập theo hướng bắt buộc chứ không phải theo hướng lồng ghép tùy nghi như hiện nay. Nếu không sửa đổi chương trình để đưa những bài giảng bắt buộc về nhân quyền hay định hướng các bài hiện có theo hướng tiếp cận nhân quyền thì có có thể kiểm soát việc cung cấp tri thức nhân quyền và tiếp cận theo hướng nhân quyền trong từng bài giảng của giảng viên.
2.      Đổi mới giáo trình cho hiện đại, tiếp cận theo hướng nhân quyền, pháp quyền trong từng chương và toàn toàn bộ giáo trình. Giáo trình nên có những chương riêng về vấn đề Quyền con người, quyền công dân trong mối liên hệ với nhà nước và pháp luật; Quan niệm đa chiều về pháp luật về nhà nước (chứ không chỉ dừng lại ở các quan niệm về nguồn gốc);  Mối quan hệ giữa nhà nước, cá nhân, pháp luật… Trong giáo trình nên hạn chế dung lượng các chương về Kiểu nhà nước và kiểu pháp luật theo thuyết hình thái kinh tế xã hội bởi lẽ đó là kiến thức lịch sử nhà nước và pháp luật và phần nhiều mang tính tư tưởng, chính trị không phù hợp với cách tiếp cận nhân quyền hiện đại.
3.      Nên chuẩn hóa việc dạy theo hình thức tín chỉ để có thời gian phù hợp, khoa học cho việc dạy, học và thảo luận không chỉ đối với môn học Lý luận nhà nước và pháp luật mà còn các môn học khác để đảm bảo dung lượng kiến thức và những vấn đề hiện đại về nhà nước và pháp luật cũng như những vấn đề liên quan đến nhân quyền trong mối liên hệ với lý luận nhà nước và pháp luật được truyền tải khoa học hơn (cụ thể như đã phân tích ở trên).
4.      Nên có cơ chế về thời gian tư vấn bắt buộc đối với các giảng viên và có chế độ phù hợp với thời gian này (điều này đảm bảo quyền và lợi ích của sinh viên và đảm bảo những khúc mắc liên quan đến môn học được giải đáp đầy đủ và sâu hơn trên các giờ này. Đây cũng là biểu hiện thiết thực của vấn đề nhân quyền).

Thay lời kết:

Lý luận nhà nước và pháp luật là một khoa học pháp lý cơ sở, nền tảng và do đó môn học Lý luận nhà nước và pháp luật có sứ mệnh “mở đường” để bước vào với thế giới của khoa học pháp lý, với xã hội pháp quyền văn minh. Lý luận nhà nước và pháp luật nhất định phải được đối xử như là một trong những khoa học và môn học nền tảng nhất, quan trọng nhất, đặc biệt không thể là công cụ tuyên truyền, công cụ tư tưởng và không nên "chính trị hóa" nó. Lý luận nhà nước và pháp luật phải mở ra cho những người học luật một con đường đúng, một trời tri thức khách quan, hiện đại và đa diện. Để được như thế, trước hết, trên hết và cần thiết phải có những đổi mới hướng tiếp cận đối với chương trình và giáo trình của môn học này/. 
P/S: Bài viết trên chỉ là những cảm nhận của cá nhân và dựa trên Báo cáo của tác giả trong Hội nghị tập huấn giảng dạy lồng ghép "Quyền con người" trong các môn học Lý luận và lịch sử NNPL tổ chức tháng 7/2015 tại Khoa Luật, ĐHQGHN!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.