TS. Mai Văn Thắng
Khoa Luật - ĐHQGHN
“Muốn tìm hiểu lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam thì phải tìm hiểu cộng đồng làng xã, và muốn xây dựng lại đất nước Việt Nam thì cũng phải bắt đầu bằng việc xây dựng lại cộng đồng làng xã. Vì không có làng xã Việt Nam thì không có quốc gia Việt Nam"
- Vũ Đình Hòe -
Sinh ra từ làng nên tôi luôn "bị ám ảnh" bởi làng. Có lẽ vì thế mà dù đi được đây đó nhưng tầm mắt tôi vẫn không vượt khỏi chữ "Làng". Trong bài viết này, trên cơ sở lĩnh hội những tri thức, nghiên cứu của các bậc đại tiền bối trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử, văn hóa, tôi xin có đôi lời bình luận và qua đây cũng xin được bày tỏ mong muốn về những đổi mới trong quản trị địa phương sao cho vừa mang được hơi thở của các xu thế hiện đại, nhưng phải kế thừa những tinh túy của "Làng Việt" - những tinh túy mà không phải nơi nào trên thế giới này cũng dễ mà có được.
Nghiên cứu về làng xã
không phải là đề tài hay hướng nghiên cứu mới, mà đã có rất nhiều những công
trình nghiên cứu về nó một cách công phu trong suốt chiều dài lịch sử của dân
tộc. Tuy vậy, làng xã luôn là đề tài có tính hấp dẫn, có tính cấp thiết và giá
trị cao, đặc biệt trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách thể chế, dân chủ hóa và định
hướng xây dựng tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay. Về ý nghĩa
này, ông Vũ Đình Hòe, trong cuốn Hồi ký Thanh Nghị đã viết: “Muốn tìm hiểu lịch sử hình thành dân tộc
Việt Nam thì phải tìm hiểu cộng đồng làng xã, và muốn xây dựng lại đất nước
Việt Nam thì cũng phải bắt đầu bằng việc xây dựng lại cộng đồng làng xã. Vì
không có làng xã Việt Nam thì không có quốc gia Việt Nam”.[1]
Tất nhiên, không chỉ có
ông Vũ Đình Hòe, mà giá trị của làng xã đối với quốc gia, dân tộc Việt Nam đã
được nói đến rất nhiều. Vua Gia Long đã từng nói “Nước là họp các làng mà thành. Từ làng đến nước dạy dân nên tục. Vương
chính lấy làng làm trước” hay P. Mus – học giả, sĩ quan quân đội Pháp đầu
thế kỷ XX cũng nhận định: “Làng là cái
chìa khóa để giải mã bí mật Việt Nam, thần kỳ Việt Nam”.[2]
GS Hà Văn Tấn – nhà nghiên cứu lịch sử với nhiều công trình nghiên cứu về làng
rất có giá trị đã nhận thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa làng, liên làng và siêu
làng. Sự liên hệ chặt chẽ biện chứng giữa làng, liên làng và siêu làng đã hình
thành nên ý thức của cộng đồng dân tộc Việt Nam.[3]
Mặc dù không hề đả động
đến làng,[4]nhưng
điều đó không có nghĩa Hiến pháp 2013 đã không chú ý đến yếu tố làng. Với những
quy định mang tính chất nền tảng trong Chương IX “Chính quyền địa phương” Hiến
pháp đã tạo cơ hội cho luật hóa những quy định mới về tổ chức CQĐP. Và vì vậy,
dù không phải là cấp chính quyền nhưng vai trò và sự ảnh hưởng của yếu tố làng
không thể thiếu trong những nghiên cứu đề xuất xây dựng luật về CQĐP, nhất là
trong bối cảnh đẩy mạnh tự chủ, tự chịu trách nhiệm và đa dạng hóa mô hình,
phương thức tổ chức CQĐP ở nước ta.
Có một điều rất thú vị ở
chỗ, khi nghiên cứu về làng, các nhà nghiên cứu thường liên hệ đến vấn đề dân
chủ ở làng xã. Điều này không phải ngẫu nhiên, mà lịch sử đã chứng minh rằng, ở
Việt Nam làng luôn gắn liền với dân chủ. Dù biểu hiện dưới nhiều phương diện
khác nhau, làng xã Việt Nam luôn là biểu hiện và cũng là bảo đảm của dân chủ,
là sự khác biệt với phương thức tổ chức quyền lực mang nặng tính trung ương tập
quyền chuyên chế kiểu phương Đông.[5]
Vì vậy, nghiên cứu về làng xã và dân chủ làng xã có ý nghĩa đặc biệt quan trong
trong bối cảnh mở rộng dân chủ, nhất là dân chủ ở cơ sở, và thúc đẩy bảo vệ
quyền con người như tính thần của Hiến pháp 2013.
Về làng Việt, GS. Nguyễn Quang Ngọc
nhận xét: “Từ thời kỳ văn hoá Phùng Nguyên cách ngày nay khoảng 4000 năm, trên
đất nước ta đã diễn ra quá trình tan rã của công xã thị tộc và thay vào đó là
quá trình hình thành công xã nông thôn- hay nói một cách khác đấy là quá trình
hình thành làng Việt. Mỗi làng bao gồm một số gia đình sống quây quần trong một
khu vực địa lý nhất định. Ở đây, bên cạnh quan hệ địa lý- láng giềng, quan hệ
huyết thống vẫn được bảo tồn và củng cố tạo thành kết cấu vừa làng vừa họ, hay
kết cấu làng họ rất đặc trưng ở Việt Nam. Lúc này toàn bộ ruộng đất cày cấy
cùng với rừng núi, sông ngòi, ao đầm trong phạm vi làng đều thuộc quyền sở hữu
của làng. Ruộng đất của làng được phân chia cho các gia đình thành viên sử dụng
theo những tục lệ mang tính chất bình đẳng, dân chủ của cộng đồng làng và có
thể là phân chia một lần rồi có kết hợp điều chỉnh khi cần thiết. Đơn vị sản
xuất chủ yếu trong làng là gia đình nhỏ. Ngoài những ruộng đất phân chia cho
các thành viên cày cấy, làng có thể giữ một phần ruộng đất để sản xuất chung
nhằm sử dụng hoa lợi thu hoạch vào những chi phí công cộng. Công việc khai
hoang, làm thuỷ lợi và các hình thức lao động công ích khác đều được tiến hành
bằng lao động hiệp tác của các thành viên trong làng. Làng Việt như thế, là một
loại hình của công xã Phương Đông, trong đó nông nghiệp gắn liền với thủ công
nghiệp, làng xóm gắn liền với ruộng đất, nên tự nó mang tính ổn định cao. Tính
ổn định cao này đã hoá thân thành tinh thần công xã, thành truyền thống xóm
làng nên nó trở thành nguồn sức mạnh tiềm tàng trong cuộc đọ sức nghìn năm với
các mưu đồ nô dịch và đồng hoá của phương Bắc”.[6]
Trên cơ sở những nghiên cứu của
mình, GS, Nguyễn Quang Ngọc đã chỉ ra mấy đặc điểm cơ bản của Làng Việt như
sau:
-Thứ nhất, mỗi làng có một địa vực nhất
định coi như không gian sinh tồn gồm khu cư trú, ruộng đất, đồi gò, núi sông,
ao đầm... do cộng đồng làng hay các thành viên của cộng đồng làng sử dụng;
- Thứ hai, cư dân trong làng là thành viên
của một cộng đồng gắn bó với nhau bằng nhiều mối quan hệ như quan hệ láng giềng
(làng, xóm, ngõ...), quan hệ huyết thống (gia đình, dòng họ), quan hệ nghề
nghiệp, quan hệ tín ngưỡng, quan hệ tương trợ giúp đỡ lẫn nhau (phường, hội,
họ...)...
- Thứ ba, về mặt văn hoá mỗi làng thường
có đình làng thờ thành hoàng làng, có chùa, đền, miếu, am, quán, có cơ sở sinh
hoạt văn hoá, tín ngưỡng và lễ hội chung (riêng các làng theo Thiên chúa giáo
các sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng tập trung ở nhà thờ).
- Thứ tư, về mặt quản lý thời kỳ đầu có
thể chỉ là hội đồng già làng, chủ yếu tổ chức, quản lý theo tục, sau đó đến Hội
đồng kỳ mục rồi Hội đồng tộc biểu..., quản lý thông qua hương ước.[7]
Như vậy,
làng không có nghĩa chỉ là đơn vị quản lý lý ở một phạm vi lãnh thổ nhất định.
Làng Việt đặc trưng ở chỗ đó là sự gắn kết tự nhiên của cộng đồng người mà
thông thường có quan hệ họ hàng than thích hoặc gần gũi, làng xóm láng giềng
với những truyền thống, tập quán sinh hoạt cộng đồng, tín ngường chung. Làng
Việt còn là đơn vị sản xuất độc lập có thể tự cung tự cấp, có ruộng đất, tải
sản chung của làng, có cơ quan quản lý với những quy định, quy ước được thiết
lập, đặt ra để tổ chức, quản lý cuộc sống của làng.
Xét ở góc độ
này, làng Việt không chỉ được coi như là
đơn vị tụ cư rất bền vừng mà còn mang dáng dấp của một quốc gia thu nhỏ. Nói
như Lorin, một nhà nghiên cứu người Pháp: “Thời
tiền cổ Việt Nam là một liên bang gồm hơn 2000 tiểu vương quốc”[8] hay như
nhận định của Toàn quyền Đông Dương Piere Pasquieu: “Làng hợp thành một khối hoàn bị đến nỗi người ta không thể sửa đổi một
điểm nhỏ nào… Chúng ta không có ích, lợi gì mà đả phá trực tiếp hoặc gián tiếp
một cơ quan hiện là một lợi khí màu nhiệm miễn ta nên để nó nguyên vẹn tôn
trọng các hình thức của nó”.[9]
Khác với
làng, “làng xã” là thuật ngữ xuất hiện muộn hơn. Và theo GS. Nguyễn Quang Ngọc:
“Làng xã là một đơn vị tụ cư, đơn vị
kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh hoạt văn hoá cộng đồng, đơn vị hành chính
cấp cơ sở (ở đây chúng tôi muốn nói về trường hợp thời kỳ đầu một xã chỉ có một
làng). Cụm từ “làng xã” hết sức thông dụng, thậm chí nhiều người tưởng rằng
làng với xã chỉ là một và có cùng nguồn gốc rất lâu đời. Thật ra khái niệm
“làng xã” chỉ xuất hiện sớm nhất là từ thế kỷ VII, nhưng chắc chắn phải đến thế
kỷ X, sau khi cấp xã chính thức xuất hiện mới có điều kiện trở thành phổ biến
trong xã hội”.[10]
Dù còn có
nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ này, nhưng tác giả đồng tình với quan
niệm trên và cũng cho rằng, thuật ngữ “làng xã” có nhiều điểm tương đồng với
thuật ngữ “làng” nhưng xuất hiện muộn hơn. Ngoài ra, thuật ngữ “làng xã” cũng
được sử dụng khá phổ biến để chỉ cấp quản lý thấp nhất khi nói một cách chung
chung. Ở đây, cũng có sự khác biệt khi làng xã đôi khi cũng được coi là cấp
chính quyền cơ sở trong hệ thống bộ máy quản lý của chính quyền đô hộ cũng như
chính quyền phong kiến Việt Nam.
Bàn về “dân
chủ” ở làng xã, trước hết tác giả khẳng định rằng. Thuật ngữ “dân chủ” được
dùng với nghĩa phi truyền thống, không hoàn toàn theo nghĩa được hiểu hiện nay.
Bởi, trong bối cảnh xã hội bị đô hộ hoặc dưới phương thức quản lý nhà nước
trong thời kỳ phong kiến Việt Nam, thuật ngữ “dân chủ” khó có thể được hiểu
theo nghĩa “là phương thức tổ chức quyền lực mà ở đó người dân là chủ của quyền
lực”. Dù dân chủ được hiểu trên nhiều giác độ như: chính trị pháp lý, triết
học, trên phương diện kinh tế, phương diện quan hệ quốc tế… thì trong xã hội
tiền phong kiến, phong kiến và thực dân ở Việt Nam thì cũng khó có thể hiểu
“dân chủ” thời đó theo nghĩa hiện nay.
Thuật ngữ
“dân chủ làng xã” mà tác giả sử dụng trong bài này nhằm mô tả một dạng tổ chức
quản lý đặc biệt ở làng xã Việt Nam trong lịch sử. Một dạng tổ chức có sự tham
gia rộng rãi của các thành viên làng xã, có tính tự quản, tự trị cao trong đời
sống vật chất, quản lý và đời sống tinh thần, tâm linh. “Dân chủ” ở đây còn
được hiểu rộng ra là sự đánh giá cao vai trò của người dân, cộng đồng làng xã
trong việc giải quyết các công việc quốc gia hệ trọng.[11]
Trên cơ sở
những khảo cứu và tham khảo những nghiên cứu của các bậc tiền bối, tác giả cho
rằng, dân chủ làng xã ở Việt Nam trong truyền thống được quy định bởi các yếu
tố sau:
Thứ nhất, tính tự trị, tự quản của
làng xã.
- Dù rằng,
tự quản, tự trị không phải hoàn toàn đồng nghĩa với dân chủ,[12]nhưng tính
chất tự quản, tự trị của làng xã Việt Nam trong truyền thống là nhân tố có tác
động nhiều đến dân chủ.
Theo GS.
Phan Đại Doãn tính tự trị, tự quản này có nguồn gốc từ chế độ ruộng đất: “Tính tự trị của làng xã vốn
có nguồn gốc lịch sử xa xưa, nhưng vịêc thực hiện chế độ quân điền và sự xuất
hiện thêm các quan hệ cộng đồng trong làng xã làm cho nó càng được củng cố.
Việc chia ruộng đất đòi hỏi phải có tổ chức đại diện các giáp, các họ cùng với
hội đồng chức dịch bảo đảm sự phân chia cho hợp lý, tương đối công bằng. Việc
phân chia này lại có lệ riêng của làng, có khi không theo đúng thể lệ quân điền
của nhà nước. Chế độ quân điền Gia Long đề ra 3 năm một lần chia, nhưng không
ít làng xã lại kéo dài đến 4 năm. Ngoài phần ruộng chia cho dân, làng còn để
ruộng cho giáp, cho chùa, cho đình, cho hội Tư văn, cho các chức dịch từ xã trưởng
cho đến mõ - mà nhà nước trung ương không kiểm soát nổi. Như vậy, tính tự trị
của làng xã được duy trì một phần là do chế độ quân điền”.
Điều này có lẽ
là hợp lý, bởi với việc làng có đất đai riêng - tài sản, tư liệu liệu quan
trọng nhất trong xã hội phong kiến, đã giúp cho làng có thể độc lập, tự chủ hơn
so với triều đình phong kiến. Do có ruộng đất, làng xã có thể tự lo liệu, sản
xuất làm ăn, tự bàn bạc, hỗ trợ nhau trong việc tạo lập ra của cải vật chất
nuôi sống chính mình và gia đình đồng thời góp phần vào giải quyết những nhu
cầu chung của làng như tôn tạo đường xá, cầu cống, đền thờ, miều mạo, thực hiện
các nghi lễ tín ngưỡng bằng chính tài sản do làng tạo dựng nên. Việc có ruộng
đất canh tác đã làm cho sự độc lập, tự chủ của làng cao hơn, qua đó có tính tự
quyết cao hơn.
-
Bên cạnh ruộng đất, tính tự quản, tự
trị còn thể hiện ở việc làng xã thường lập các hương ước, làng ước riêng để tạo
lập những qui tắc, chuẩn mực cho người làng trong ứng xử cộng đồng và giải
quyết các công việc của cộng đồng. Khác với luật pháp của nhà nước, hương ước
lệ làng là những qui tắc chuẩn mực do chính nhân dân trong làng tạo lập nên.
Nguồn của những hương ước lệ làng đó có thể là những qui tắc đạo đức, qui tắc
tập quán, tín ngưỡng, những thói quen trong sinh hoạt cộng đồng đã được truyền
từ đời này qua đời khác. Mục đích của các hương ước lệ làng ấy chính là để
thiết lập ra các chuẩn mực ứng xử, qui tắc quản lý phù hợp với điều kiện, ý
chí, nhu cầu của người dân địa phương. Việc thực thi các qui tắc, chuẩn mực này
cũng được bảo đảm bằng hệ thống các biện pháp, bao gồm cả các hình thức cưỡng
chế đã được qui ước. Đôi khi hương ước cũng phải được phê chuẩn của chính
quyền. Nhưng quan trọng hơn cả, hương ước, lệ làng chính là tiếng nói của tất
cả người dân trong làng, là sản phẩm của sự đúc kết, ý chí công cộng chứ không
phải là sản phẩm xa lạ mang tính áp đặt, cưỡng chế như luật pháp của triều
đình. Không chỉ có hương ước, lệ làng, làng Việt còn có nhiều những
« Lệ » của các hội, các phường trong quan hệ sản xuất, làm ăn.
-
Tính tự trị, tự quản còn được thể hiện
ở tính tự tổ chức, quản lý của làng xã. Ở mỗi thời kỳ khác nhau, sự tổ chức,
quản lý của làng xã cũng không giống nhau. Nhưng tựu chung lại, quản lý ở làng
xã mang tính chất tự quản, tự trị. Người đứng đầu làng xã thường không phải là
quan chức nhà nước mà là người của địa phương, thậm chí còn do dân địa phương
bầu lên. Bên cạnh chức xã trưởng, ở làng xã còn có các cơ quan mang tính chất
đại diện, đại biểu hoặc các thiết chế sinh hoạt quản lý cộng đồng như Hội đồng
kỳ dịch, Hội đồng kỳ mục, cuộc họp toàn dân làng…[13]
Thứ hai, tính mở của làng xã Việt Nam
Thông thường khi nói đến làng Việt,
nhiều người hay liên tưởng đến sjw khép kín, tự cung tự cấp, làng «ẩn mình sau lũy tre xanh», kín đáo sau
« chiếc cổng làng».
Điều này không sai, nhưng nếu chỉ nói
thể cũng chưa phản ánh một cách toàn diện về làng xã Việt Nam.
Tác giả cho rằng, GS Phan Đại Doãn đã
có nhận định đúng khi cho rằng không nên gọi làng là công xã.[14]
Việt Nam không có công xã theo nghĩa công xã thị tộc, công xã nông thôn, công
xã gia tộc như đã từng tồn tại ở nhiều nơi trong lịch sử.
Đúng vậy, làng Việt không hoàn toàn là
một cụm dân chỉ chỉ bao gồm một hay một vài dòng tộc, họ. Làng Việt cũng không phải là nơi có mô hình
sản xuất kiểu công xã nông thôn. Làng Việt rất chặt chẽ, nhưng đa nguyên. Làng
Việt có khi chỉ bao gồm vài họ lớn, nhưng Làng Việt không bài trừ thủ tiêu các
họ khác. Làng Việt là nơi dân cự ngụ hoàn toàn có thể gia nhập vào và sôngs
bình đẳng ở đó miễn là tuân theo các qui tắc và chuẩn mực của Làng. Có làng
Việt là nới tứ xứ đến để ngụ cư. Cái cổng làng những lũy tre nhiều khi là nơi
che chở cho những người bị triều đình, quan quân truy nã. Làng Việt rất mở,
làng Việt không phải là tổ chức mang tính chất dòng tộc.
Làng Việt cũng không phải là công xã
nông thôn, mà là nơi sản xuất tiểu nông nhỏ lẻ. Mỗi gia đình, mỗi hộ là một chủ
thể kinh tế độc lập của làng. Ngoài đất của làng, mỗi nhà đều có cho mình phần
đất để «cắm dùi » để sản xuất, tăng gia. Cũng vì thế mà các thành viên của
làng độc lập và dễ dàng tiếp nhận những thành viên mới.
Thứ ba, đặc thù
của các mối quan hệ trong Làng Việt.
Yếu tố này có quan hệ mật thiết với các
yếu tố nêu trên. Trong Làng Việt không chỉ có quan hệ họ hàng, huyết thống. Mà
quan trọng hơn cả, quan hệ ấy là quan hệ kiểu «tình làng, nghĩa xóm». Quan hệ này được hun đúc bởi chính những nhu
cầu trong cuộc sống, sự cần thiết phải dựa dẫm vào nhau những lúc «trái gió, trở trời». Các thành viên của
làng rất cần đến nhau trong các việc lớn của gia đình như việc hiếu, việc hỉ, ma
chay, giỗ tết, hay cùng nhau giúp đỡ xây dựng ngôi nhà, lập nên nơi cư ngụ hay
cùng nhau gánh vác công việc cộng đồng. Không phải không đề cao huyết thống
nhưng câu tục ngữ «Bán anh em xa mua láng
giềng gần» phần nào lột tả được đặc thù của quan hệ này trong làng
Việt. Mối quan hệ làng xóm cũng như quan hệ họ hàng phần nào lý giải tính bình
đẳng, tính tương hỗ, ngang bằng nhau trong quan hệ của người Việt. Ở Làng không
phải là không có thứ bậc, nhưng sự phổ biến ở những quan hệ tình nghĩa, tương
hỗ ấy làm nên tính dân chủ cao hơn, tính con người cao hơn so với những nơi mà
ở đó tính thứ bậc trong quan hệ họ hàng, gia đình, quyền lực luôn ngự trị.
[1]
Vũ Đình Hòe, Hồi ký Thanh Nghị, NXB. Hà Nội, Hà Nội, 1997. Tr. 318.
[2]
Dẫn theo Lời giới thiệu sách của GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc “Làng – Đa nguyên và
chặt”. NXB. ĐHQGHN, 2006.
[3]
Hà Văn Tấn: Làng,
liên làng và siêu làng (Mấy suy nghĩ về phơng pháp) // Một chặng đường
nghiên cứu lịch sử (1995-2000), Nxb Chính trị quốc gia, H., 2000, tr 51-58.
[4]
TS. Võ Trí Hảo đã từng bàn luận (hay nói đúng hơn là than thở) về việc “Làng
không có chỗ trong Hiến pháp”. Xem trên: http://hienphap.net/2013/05/12/lang-khong-co-cho-trong-hien-phap-vo-tri-hao/.
[5] Điều này đã được khẳng định trong nhiều
nghiên cứu của các nhà sử học, văn hóa học, luật học như Hà Văn Tấn, Trần Quốc
Vượng , Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Đăng Dung…
[6] Nguyễn
Quang Ngọc, Quan hệ nhà nước – làng xã. Quá trình lịch sử và bài học kinh
nghiệm. Xem trên: http://khoalichsu.edu.vn/bai-nghien-cu/383-quan-h-nha-nc-lang-xa-qua-trinh-lch-s-va-bai-hc-kinh-nghim-gsts-nguyn-quang-ngc.html.
[7]
Nguyễn Quang Ngọc, Tài liệu đã dẫn. Xem trên: http://khoalichsu.edu.vn/bai-nghien-cu/383-quan-h-nha-nc-lang-xa-qua-trinh-lch-s-va-bai-hc-kinh-nghim-gsts-nguyn-quang-ngc.html.
[8]
Dẫn theo: Nguyễn Minh Tuấn, Dân chủ ở xã
từ góc nhìn pháp lý. NXB. CAND, Hà Nội, 2006. tr.46.
[9]
Nguyễn Đăng Dung, Dân chủ làng xã – những vấn đề cần phải đặt ra nghiên cứu.
Nhà nước và pháp luật, 1998.tr.6.
[10] Nguyễn
Quang Ngọc, Tài liệu đã dẫn. Xem trên: http://khoalichsu.edu.vn/bai-nghien-cu/383-quan-h-nha-nc-lang-xa-qua-trinh-lch-s-va-bai-hc-kinh-nghim-gsts-nguyn-quang-ngc.html.
[11]
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, khác với nhiều quốc gia trong khu vực, các
triều đại phong kiến Việt Nam cũng như trong các tư tưởng của vua quan Việt
Nam, nhân dân không hoàn toàn đồng nghĩa với dân đen, mà người dân đôi khi có
vai trò đặc biệt quan trọng như “lật thuyền, giữ thuyền”, nhà vua hỏi ý kiến
dân trong những việc trọng đại quốc gia như Hội nghị Diên Hồng…(Xem them:
Nguyễn Minh Tuấn, Dân chủ ở xã từ góc nhìn pháp lý. Sdd, tr.23-46)
[12]
Về vấn đề này, tác giả Nguyễn Việt Hương cũng đã đề cập trong “Dân chủ làng xã:
truyền thống và hiện tại” Tạp chí NNPL số 8 (196), 2004. Theo đó, tác giả Việt
Hương cho rằng “Dân chủ khác với tự quản. Tự quản có thể nằm trong phạm trù
chính trị, mang tính chính trị, có thể không mang tính chính trị. Trong khi đó
dân chủ luôn là một khái niệm chính trị”
[13]
Xem them: http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A0ng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.